Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa kiến nghị với Chính phủ về việc đề nghị tham mưu Chính phủ trình Quốc hội xem xét sửa đổi, bổ sung phương pháp thu và xử lý nợ đối với những trường hợp một cá nhân là người đại diện theo pháp luật cho nhiều doanh nghiệp khác nhau, trong đó có doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp đã chấm dứt hoạt động, bỏ địa chỉ kinh doanh và đang còn nợ thuế tại Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14, thực tế hiện nay các văn bản hướng dẫn Luật cũng chưa quy định cụ thể về việc xử lý nợ và thu nợ đối với những trường hợp này.
Ngày 24/01/2025, Bộ Tài chính đã có Văn bản số 1100/ BTC-TCT về việc trả lời kiến nghị cử tri gửi đến kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV, cụ thể như sau:
- Tại khoản 1 Điều 59 Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 ngày 13/6/2019 của Quốc hội quy định các trường hợp phải nộp tiền chậm nộp;
- Tại khoản 4 Điều 59 Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 ngày 13/6/2019 của Quốc hội quy định: trường hợp sau 30 ngày kể từ ngày hết thời hạn nộp thuế, người nộp thuế chưa nộp tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt thì cơ quan quản lý thuế thông báo cho người nộp thuế biết số tiền thuế, tiền phạt còn nợ và số ngày chậm nộp;
- Tại khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 124 Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 ngày 13/6/2019 của Quốc hội quy định các trường hợp bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế. Trong đó khoản 3 Điều 124 quy định người nộp thuế có tiền thuế nợ có hành vi bỏ trốn (không còn hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký) thuộc trường hợp bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế;
Tại khoản 1 Điều 125 Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 ngày 13/6/2019 của Quốc hội quy định các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế. Theo đó, người nộp thuế thuộc trường hợp bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế sẽ bị cơ quan quản lý thuế áp dụng các biện pháp cưỡng chế để thu hồi tiền thuế nợ (Trích tiền từ tài khoản; phong tỏa tài khoản; Khẩu trừ một phần tiền lương hoặc thu nhập; Dùng làm thủ tục hải quan; Ngừng sử dụng hóa đơn; Kê biên tài sản, bán đấu giá tài sản kê biên; Thu tiền, tài sản do cơ quan, tổ chức, cá nhân khác đang nắm giữ; Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh).
Tại khoản 9 Điều 6 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán; Luật Kế toán; Luật Kiểm toán độc lập; Luật ngân sách nhà nước; Luật quản lý, sử dụng tài sản công; Luật Quản lý thuế: Luật Thuế thu nhập cá nhân; Luật dự trữ quốc gia; Luật xử lý vi phạm hành chính ngày 29/11/2024 của Quốc hội quy định như sau:
“1. Cá nhân kinh doanh, chủ hộ kinh doanh, cả nhân là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thuộc trường hợp bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế, cá nhân là người Việt Nam xuất cảnh để định cư ở nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài trước khi xuất cảnh từ Việt Nam phải hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế; trường hợp chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế đối với số tiền thuế nợ và thời gian nợ theo ngưỡng nợ do Chính phủ quy định thì bị tạm hoãn xuất cảnh theo quy định của pháp luật về xuất cảnh, nhập cảnh. Cơ quan quản lý thuế thông bảo trước cho người nộp thuế về việc áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh.”
Như vậy, Luật Quản lý thuế hiện hành đã có quy định về việc thu và xử lý nợ như: Tĩnh tiền chậm nộp, Thông báo tiền thuế nợ, cưỡng chế nợ thuế, tạm hoãn xuất cảnh. Đối với cá nhân là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thì có thể bị tạm hoãn xuất cảnh theo quy định của pháp luật về xuất cảnh, nhập cảnh nếu doanh nghiệp chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Luật Doanh nghiệp ngày 17/6/2020 của Quốc hội thì người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách người yêu cầu giải quyết việc dân sự, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Luật Doanh nghiệp không quy định hạn chế một cá nhân là người đại diện theo pháp luật của nhiều doanh nghiệp.
Luật Doanh nghiệp hiện hành chưa có quy định gắn trách nhiệm của cá nhân thành lập hoặc người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp với các vi phạm của các doanh nghiệp khác mà cá nhân này là người thành lập hoặc người đại diện theo pháp luật. Từ đó dẫn đến tình trạng cá nhân là người thành lập hoặc người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp đã bị cơ quan thuế thông báo không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký, sau đó lại tiếp tục tham gia thành lập hoặc làm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp khác.
Bộ Tài chính đồng tình và đánh giá cao ý kiến của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa. Bộ Tài chính xin ghi nhận để nghiên cứu và tham gia đối với nội dung quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp khi sửa đổi, bổ sung Luật Doanh nghiệp./.