Giáo dục luôn giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển quốc gia bền vững. Trong bối cảnh chuyển đổi số, hội nhập quốc tế sâu rộng và yêu cầu học tập suốt đời trở thành xu thế tất yếu, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục không chỉ là yêu cầu khách quan về kỹ thuật lập pháp mà còn là cơ hội then chốt để định hình một hệ thống giáo dục quốc dân hiện đại, linh hoạt, mở và bao trùm.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục thể hiện nỗ lực tiếp cận những giá trị tiến bộ trong giáo dục: từ thúc đẩy giáo dục mở, công nhận giá trị của văn bằng số đến đặt nền móng cho quản trị giáo dục bằng dữ liệu và trí tuệ nhân tạo. Tuy nhiên, để đạo luật này thực sự là trụ cột pháp lý cho phát triển giáo dục trong kỷ nguyên số, cần tiếp tục hoàn thiện những điều khoản then chốt, bảo đảm tính đồng bộ, khả thi và phù hợp thực tiễn.
Bài viết tập trung góp ý đối với ba nội dung quan trọng của Dự thảo: (1) xác lập hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng mở, linh hoạt; (2) quy định về văn bằng, chứng chỉ số; và (3) thúc đẩy hoạt động khoa học, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong giáo dục.
1. Về xác lập hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng mở, linh hoạt
Khoản 1 Dự thảo Luật quy định: “1. Hệ thống giáo dục quốc dân là hệ thống giáo dục mở, liên thông thực hiện giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên.”
Quy định này phù hợp với xu hướng giáo dục hiện đại, đặc biệt là chủ trương xây dựng hệ thống giáo dục mở và học tập suốt đời. Tuy nhiên, cách diễn đạt còn khái quát, chưa làm rõ các yếu tố cấu thành đặc trưng của một hệ thống giáo dục mở, linh hoạt. Cụ thể:
- Khái niệm “mở” và “liên thông” chưa được làm rõ về nội hàm, phương thức vận hành và hình thức tổ chức.
- Việc dự thảo nêu hệ thống giáo dục quốc dân “thực hiện giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên” có thể dẫn đến hiểu nhầm rằng hệ thống giáo dục quốc dân chỉ bao gồm hai hình thức đào tạo này.
- Các hình thức học tập linh hoạt đang ngày càng phổ biến trong thực tiễn như: đào tạo trực tuyến, đào tạo từ xa, tích lũy tín chỉ, liên kết quốc tế… chưa được đề cập, gây hạn chế khi áp dụng trong triển khai thực tế và thiếu đồng bộ với các luật chuyên ngành có liên quan như: Luật Giao dịch điện tử, Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Giáo dục đại học (sửa đổi).

Toàn cảnh phiên họp thứ 9 Quốc hội khóa XV
Từ các phân tích trên, đề nghị sửa đổi Khoản 1 như sau:
“1. Hệ thống giáo dục quốc dân là tổng thể các cấp học, trình độ đào tạo và hình thức đào tạo được tổ chức thống nhất, bảo đảm tính liên thông, linh hoạt, theo hướng mở, nhằm đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của người dân và yêu cầu phát triển nguồn nhân lực quốc gia.
Hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên; được tổ chức thông qua các hình thức đào tạo trực tiếp, đào tạo từ xa, đào tạo trực tuyến, đào tạo tích lũy tín chỉ, liên kết đào tạo với cơ sở giáo dục nước ngoài và các hình thức đào tạo khác theo quy định của pháp luật.”
2. Về quy định văn bằng, chứng chỉ số
Khoản 5 Dự thảo quy định: “5. Văn bằng, chứng chỉ số là văn bằng, chứng chỉ được cấp dưới dạng kỹ thuật số từ cơ sở dữ liệu về văn bằng, chứng chỉ của cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng, chứng chỉ hoặc từ cơ sở dữ liệu về văn bằng, chứng chỉ của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Văn bằng, chứng chỉ số có giá trị pháp lý như văn bằng, chứng chỉ giấy...”
Quy định về văn bằng, chứng chỉ số là cần thiết, phù hợp với chủ trương chuyển đổi số quốc gia, tạo cơ sở pháp lý cho việc số hóa, minh bạch, công khai, thuận tiện trong quản lý, xác minh văn bằng, chứng chỉ. Việc công nhận giá trị pháp lý của văn bằng, chứng chỉ số tương đương với văn bản giấy phù hợp với quy định của Luật Giao dịch điện tử năm 2023 và thông lệ quốc tế.
Tuy nhiên, quy định còn chung chung, chưa bảo đảm tính cụ thể và khả thi; Chưa nêu rõ các thông tin tối thiểu, chuẩn định dạng, mã định danh, chữ ký số để bảo đảm giá trị pháp lý và xác thực.
Để đảm bảo sự chặt chẽ, hợp lý về lập luận, đúng kỹ thuật lập pháp và đảm bảo tính khả thi, đề nghị sửa đổi, bổ sung quy định Khoản 5 như sau:
“5. Văn bằng, chứng chỉ số là văn bằng, chứng chỉ được cấp dưới dạng kỹ thuật số theo định dạng chuẩn thống nhất, có mã định danh, chữ ký số và được lưu trữ trong cơ sở dữ liệu về văn bằng, chứng chỉ do cơ quan có thẩm quyền cấp hoặc Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý. Văn bằng, chứng chỉ số có giá trị pháp lý như văn bằng, chứng chỉ được cấp dưới dạng giấy.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu về văn bằng, chứng chỉ của Bộ Giáo dục và Đào tạo; quy định cụ thể về văn bằng, chứng chỉ số và lộ trình cấp, sử dụng văn bằng, chứng chỉ số.”
3. Về thúc đẩy hoạt động khoa học, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong giáo dục
Dự thảo đã sửa đổi, bổ sung theo hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh, từ hoạt động nghiên cứu khoa học truyền thống sang đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong giáo dục. Quy định này phù hợp với xu thế toàn cầu, định hướng phát triển Chính phủ số, xã hội số và Chiến lược chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến 2030.

Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa thảo luận tại Tổ
Khoản 5 Điều 19 nêu: “5. Nhà nước thúc đẩy chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo có kiểm soát (dữ liệu có kiểm soát) trong quản trị, quản lý và đào tạo trong giáo dục...”
Đây là bước tiến đột phá, góp phần hiện đại hóa công tác quản lý ngành giáo dục, nâng cao hiệu quả giám sát, phân tích dữ liệu phục vụ hoạch định chính sách. Tuy nhiên, dự thảo chưa làm rõ nguyên tắc quản lý dữ liệu vì người học, cũng như thiếu quy định bảo vệ dữ liệu cá nhân trong môi trường giáo dục số, trong khi đây là yêu cầu cấp thiết được Luật Giao dịch điện tử 2023, Luật An ninh mạng, Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân (dự kiến thông qua tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV) đặc biệt nhấn mạnh.
Để đảm bảo sự phù hợp, đầy đủ và chặt chẽ của điều luật, đề nghị bổ sung cuối khoản 5 như sau:
“…Việc thu thập, lưu trữ, chia sẻ và sử dụng dữ liệu giáo dục phải bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch, lấy người học làm trung tâm và tuân thủ quy định của pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân.”
Luật Giáo dục là đạo luật nền trong hệ thống pháp luật quốc gia, là trụ cột để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số và xã hội tri thức. Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đã phản ánh tinh thần đổi mới tư duy lập pháp, mở rộng không gian phát triển cho ngành giáo dục, đặt nền móng cho một hệ thống giáo dục hiện đại, hội nhập và lấy người học làm trung tâm. Tuy nhiên, để luật thực sự đi vào cuộc sống, cần tiếp tục hoàn thiện theo hướng cụ thể hóa các nguyên tắc của giáo dục mở, xác lập hành lang pháp lý rõ ràng cho văn bằng số, và đặc biệt, bảo đảm an toàn dữ liệu cá nhân trong môi trường giáo dục số. Đây là những yếu tố then chốt không chỉ nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước mà còn tạo điều kiện cho mọi công dân Việt Nam được học tập công bằng, linh hoạt và suốt đời trong kỷ nguyên số.