Chính sách giảm nghèo là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước Việt Nam nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người nghèo, góp phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư; đồng thời thể hiện quyết tâm trong việc thực hiện Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc mà Việt Nam đã cam kết. Được triển khai toàn diện cả các chính sách hỗ trợ giảm nghèo chung (hỗ trợ sản xuất, dạy nghề, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người nghèo; hỗ trợ về giáo dục và đào tạo; hỗ trợ về y tế; hỗ trợ về nhà ở; hỗ trợ người nghèo tiếp cận các dịch vụ trợ giúp pháp lý; hỗ trợ người nghèo hưởng thụ văn hóa, thông tin) và các chính sách hỗ trợ giảm nghèo đặc thù (hộ nghèo, người nghèo dân tộc thiểu số; hộ nghèo, người nghèo sinh sống ở huyện nghèo, xã nghèo và thôn, bản đặc biệt khó khăn; chính sách ưu đãi đối với huyện nghèo, xã nghèo), suốt gần hai thập kỷ nỗ lực sự nghiệp giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, diễn biến nghèo đói vẫn đang đặt ra không ít thách thức đối với bài toán giảm nghèo bền vững của Việt Nam khi hướng đến mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, đòi hỏi phải có các giải pháp quyết liệt và đồng bộ hơn trong tương lai.
1. Thành tựu giảm nghèo trong 2 thập
kỷ qua
Tính từ năm 1997, khi Ban Chấp
hành Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 29/11/1997 về lãnh đạo
thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo có thể gần hai thập kỷ qua, Việt Nam đã
tích tụ được nhiều thành tựu, kinh nghiệm và bài học quan trọng cả trên phương
diện hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện để trở thành điểm sáng trong
việc thực hiện Mục tiêu thiên niên kỷ - với thành tích là một trong những nước
có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất thế giới. Thành tựu
giảm nghèo của nước ta được đánh giá cao ở khía cạnh trong bối cảnh nguồn lực
có hạn nhưng kết quả giảm nghèo rất lớn. Mức độ giảm nghèo mạnh được thể
hiện một cách rõ ràng kể cả khi sử dụng nhiều cách tiếp cận đo nghèo khác nhau
để theo dõi sự tiến bộ - cho dù là đánh giá theo chuẩn nghèo quốc gia hay sử dụng các chuẩn
nghèo so sánh của quốc tế (bình quân đầu người 1,25 USD và 2 USD/ngày - tính
ngang giá sức mua tương đương năm 2005). Nếu sử dụng chuẩn nghèo “dựa theo nhu
cầu cơ bản”, tỉ lệ nghèo giảm từ 58% vào năm 1993 xuống 9,6% vào năm 2012. Số
lượng tuyệt đối về người nghèo đã giảm mạnh.
Tính tổng thể, gần một nửa dân số Việt Nam đã thoát nghèo trong vòng chưa đầy
hai thập kỷ. Với các chuẩn mực có thể so sánh theo thời gian của Tổng cục Thống
kê Việt Nam – Ngân hàng thế giới, hơn 43 triệu người đã thoát nghèo trong giai
đoạn từ 1993 đến 2008. Khi sử dụng các chuẩn nghèo quốc tế được điều chỉnh theo
sức mua tương đương thì cũng khẳng định được rằng số người nghèo gồm nam giới,
nữ giới và trẻ em nghèo ở Việt
nam đã giảm đáng
kể.
2. Thách thức phía trước
Mặc dù đã đạt được những
thành tích đầy ấn tượng về giảm nghèo, nhưng mục tiêu giảm nghèo bền vững gắn
với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến 2020 đang đặt ra nhiều thách
thức trong việc duy trì tiến độ giảm nghèo, ngăn chặn tái nghèo trong thời kỳ
mới, đó là:
Thứ nhất,mô
hình tăng trưởng kinh tế trong 2 thập niên qua mất dần vai trò động lực chính
của giảm nghèo, những nỗ lực cải cách toàn diện nền kinh tế
đã đưa đến sự tăng trưởng nhanh chóng, sự chuyển dịch về cơ cấu lao động một
cách sâu sắc và là động lực chính tạo nên các thành tựu trong xóa đói giảm
nghèo. Tuy nhiên, đó là mô
hình kinh tế dựa vào khai thác tài nguyên và lao động giá rẻ, dựa vào đầu tư
nước ngoài để xuất khẩu nhằm tăng trưởng nhanh. Kinh nghiệm quốc tế và thực
tiễn ở nước ta cho thấy mô hình này chỉ có vai trò thúc đẩy giảm nghèo ở giai
đoạn khởi động nền kinh tế thị trường, nhưng khi kéo dài thời gian thực hiện
thì vai trò này sẽ giảm dần và làm tăng mất công bằng xã hội.
Thứ hai,khoảng
cách giàu - nghèo có xu hướng gia tăng thể hiện qua thu nhập,
chi tiêu, hưởng thụ các tiện ích y tế, giáo dục, văn hóa,...Theo
số liệu thống kê, hệ số chênh lệch thu
nhập bình quân đầu người của nhóm 20% cao nhất so với nhóm 20% thấp nhất trong
cả nước năm 1990 là 4,1 lần, năm 1995
là 7,0 lần, năm 2002 là 8,1
lần, năm 2004 là 8,4 lần, đến năm 2010 là 9,2 lần.
Trong 20 năm, hệ số chênh lệch tăng lên 2,24 lần. Khoảng cách về thu nhập giữa các
nhóm dân cư, các vùng địa lý ngày càng doãng rộng trong bối cảnh chỉ số
giátiêu dùng (CPI) ngày càng tăng cao
tất yếu đưa tới hệ quả làm giảm cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của
người nghèo. Đây là thách thức đặt ra đối với chất lượng và hiệu quả của việc
thực hiện chính sách giảm nghèo trong thời gian tới;
Thứ ba,
lõi nghèo tập trung vàomột
số vùng và trong nhóm đồng bào dân tộc thiểu số. Sự thay đổi căn bản trên bản đồ
nghèo đói của Việt Nam là từ nghèo đói trên diện rộng nay tập trung cục bộ vào
đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số cư trú tại khu vực miền núi, vùng sâu, vùng
xa. Năm 2012, tỷ trọng hộ nghèo dân tộc thiểu số chiếm gần 50% tổng số hộ nghèo
trong cả nước; tỷ lệ hộ nghèo ở miền núi Tây Bắc cao gấp 2,97 lần so với tỷ lệ
hộ nghèo của cả nước; miền núi Đông Bắc là 1,81 lần, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên
là 1,56 lần, Duyên hải miền Trung là 1,27 lần. Sự thay đổi này đặt ra những khó
khăn mới cho công tác giảm nghèo vì đây là đối tượng dân cư sinh sống ở khu vực
tách biệt, khó tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, đồng thời chịu tác động mạnh
mẽ của phong tục tập quán bản địa.
Tỷ lệ hộ
nghèo các vùng năm 2011-2012
STT
|
Tỉnh/Thành phố
|
Năm 2011
|
Năm 2012
|
Tỷ lệ hộ nghèo (%)
|
Tỷ lệ hộ nghèo của các
vùng so với cả nước (lần)
|
Tỷ lệ hộ nghèo (%)
|
Tỷ lệ hộ nghèo của các
vùng so với cả nước (lần)
|
|
CẢ NƯỚC
|
11,76
|
|
9,60
|
|
I
|
Miền núi Đông Bắc
|
21,01
|
1,79
|
17,39
|
1,81
|
II
|
Miền núi Tây Bắc
|
33,02
|
2,81
|
28,55
|
2,97
|
III
|
Đồng bằng Sông Hồng
|
6,50
|
0,55
|
4,89
|
0,51
|
IV
|
Khu IV cũ
|
18,28
|
1,55
|
15,01
|
1,56
|
V
|
Duyên hải miền Trung
|
14,49
|
1,23
|
12,20
|
1,27
|
VI
|
Tây Nguyên
|
18,47
|
1,57
|
15,00
|
1,56
|
VII
|
Đông Nam Bộ
|
1,70
|
0,14
|
1,27
|
0,13
|
VIII
|
ĐB sông Cửu Long
|
11,39
|
0,97
|
9,24
|
0,96
|
Thứ tư,một
số dạng rủi ro có xu hướng gia tăng dưới tác động của khủng hoảng tài chính
toàn cầu, các tác động của biến đổi khí hậu, tai nạn, dịch bệnh...
Thứ năm, hỗ trợ tài chính của cộng đồng quốc tế có xu hướng giảm do nước ta đã
thuộc nhóm nước có thu nhập trung bình.
Thứ sáu,sự hạn chế về năng lực tổ chức, quản
lý của bộ máy nhà nước các cấp thể hiện qua căn bệnh hành chính quan liêu, tình
trạng lãng phí, nạn tham nhũng, bệnh thành tích, tư duy nhiệm kỳ,...
3. Một số định hướng tương lai cho Việt Nam
Quan điểm giải quyết nghèo đói phải dựa trên tôn trọng các quyền cơ bản
của con người được quy định trong Hiến pháp. Do đó, đến lúc phải thay đổi tư
duy xác định nghèo chỉ dựa trên cơ sở thu nhập bằng phương pháp đo nghèo đa
chiều. Việt nam, tuy trong phương pháp đo lường chưa tiếp cận nghèo đa chiều,
nhưng trong thực tế các chính sách trợ giúp đã mang tính đa chiều, trong đó
nhiều chính sách mang tính phổ quát và tạo động lực thoát nghèo. Tuy nhiên,
giải quyết vấn đề nghèo theo cách tiếp cận đa chiều theo kinh nghiệm của quốc
tế có những bài học tốt để các cơ quan chức năng của nước ta nghiên cứu vận
dụng, hoàn thiện hệ thống chính sách giảm nghèo, bao gồm: phương pháp đo lường
nghèo được dựa trên cơ sở mức độ tiếp cận các quyền cơ bản của con người. Việc
xác định các quyền và các chỉ số đo cho từng quyền được nghiên cứu bài bản, lấy
ý kiến rộng rãi, bảo đảm được tính công khai, minh bạch; xây dựng chính sách
phải dựa trên kết quả phân nhóm xã hội để có những chính sách phù hợp cho từng
nhóm đối tượng, từng khu vực và cho từng cá nhân có những chiều thiếu hụt cụ
thể. Trong giai đoạn mới, cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện phương pháp đo
nghèo và xây dựng chuẩn nghèo phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế theo hướng tính
toán, cập nhật đầy đủ nhu cầu chi tiêu tối thiểu của con người, đồng thời cần
xem xét một cách thỏa đáng các vấn đề về y tế, môi trường, bình đẳng về cơ hội,
và các yếu tố phi thu nhập như nhân lực, tài sản, khả năng tiếp cận các dịch vụ
hỗ trợ… để phản ánh được bản chất nghèo trong giai đoạn mới, phù hợp với các
hình thức và đối tượng nghèo khác nhau. Tổ chức thực hiện trợ giúp cho các đối
tượng theo từng chương trình cụ thể, áp dụng phương thức cấp phát tiền mặt có
điều kiện thông qua hình thức thẻ Ngân hàng hoặc cấp phát tiền trực tiếp theo
định kỳ. Giảm nghèo của bất kỳ quốc gia nào đều
là sự nghiệp lâu dài gắn liền với quá trình phát triển kinh tế- xã hội của quốc
gia. Do đó, cần phải tiếp tục phát huy ưu điểm và
kiên trì thực hiện mục tiêu đề ra trong cả hoạch định chính sách và tổ chức
thực hiện:
- Giảm nghèo luôn được xác định ở
tầm chiến lược quốc gia và ở cấp hoạch định chính sách cao nhất; việc xây dựng
các chương trình, dự án giảm nghèo phải xác định rõ những mục tiêu cụ thể và
nhiều giải pháp phù hợp có tính đến yếu tố vùng miền, tập quán dân cư, cộng
đồng; các chính sách giảm nghèo được xây dựng có trọng tâm, trọng điểm và phù
hợp với đối tượng trên cơ sở xác định đối tượng nghèo và diễn biến nghèo của
các nhóm dân cư khác nhau.
- Bên cạnh việc tập trung hỗ trợ cho hộ nghèo, cần có
bước chuyển hợp lý về chính sách để trợ giúp sinh kế, củng cố năng lực thoát
nghèo bền vững cho hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo. Đây là một vấn đề đặc thù
của sự nghiệp giảm nghèo tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Huy động được nguồn lực và sự tham gia của của toàn xã hội với nhiều hình
thức phong phú, từ nhiều kênh, nhiều nguồn khác nhau; đồng thời tranh thủ được
sự giúp đỡ và các nguồn lực hỗ trợ của cộng đồng quốc tế cả về vốn, kỹ thuật và
kinh nghiệm.
- Nghiên cứu, sớm áp dụng phương pháp đo nghèo
theo cách tiếp cận đa chiều
làm cơ sở cho hoạch định và thực hiện chính sách có hiệu quả hơn.
- Chính sách giảm nghèo cần được xây dựng theo
hướng thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, hỗ trợ phát triển năng lực có
điều kiện để thúc đẩy ý chí tự vươn lên của chính bản thân người nghèo, địa
phương nghèo; đẩy mạnh thực hiện phân cấp đến cơ sở, mở rộng sự tham gia của
người dân.
- Nguồn lực của Nhà nước giữ vai trò quyết
định, cần được ưu tiên và bố trí kịp thời để thực hiện các chính sách và chương
trình giảm nghèo, ưu tiên cho các địa bàn nghèo (huyện nghèo, xã nghèo, thôn
bản đặc biệt khó khăn). Đồng thời có cơ chế để huy động nguồn lực hỗ trợ từ
cộng đồng, doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế và chính bản thân hộ nghèo trong
thực hiện mục tiêu giảm nghèo; các chính sách và nguồn lực phải được công khai,
minh bạch, hỗ trợ đúng đối tượng và hiệu quả.
- Nghiên
cứu, áp dụng cơ chế phù hợp và xây dựng bộ công cụ quốc gia để theo dõi, đánh
giá các chính sách giảm nghèo mang tính hệ thống, độc lập, khách quan, minh
bạch..
Từ năm 2005, chuẩn nghèo quốc gia được tính toán trên
cơ sở chi phí cho nhu cầu cơ bản ở khu vực thành thị và khu vực nông thôn.
Chuẩn nghèo này được giữ ổn định trong 5 năm và được dùng để xác định đối tượng
tham gia thụ hưởng các chính sách về giảm nghèo.
Luật đất đai và những cải cách trong nông nghiệp;
Luật doanh nghiệp và sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân; hội nhập kinh
tế quốc tế với các mốc quan trọng nhưgia nhập WTO và ký Hiệp định thương mại song phương Việt Nam-Hoa
Kỳ;.....
Đã thí điểm xác định nghèo đa chiều tại thành phố Hồ
Chí Minh và Hà Nội; các cơ quan chức năng đang nghiên cứu để tiến tới đưa ra
phương pháp xác định người nghèo theo hướng đa chiều.
TS. Bùi
Sỹ Lợi
Phó Chủ nhiệm Ủy banvề các vấn đề xã hội