Luật Chuyển đổi số có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc hoàn thiện thể chế, thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số và chính quyền số ở nước ta; đồng thời, sẽ tạo khung pháp lý thống nhất, liên ngành, góp phần tháo gỡ vướng mắc, tăng cường tính liên thông, chia sẻ dữ liệu, và đảm bảo an toàn, an ninh mạng trong quá trình chuyển đổi số quốc gia.

Chuyển đổi số là một quá trình tổng thể và toàn diện, có sự tác động qua lại mật thiết giữa nhà nước, doanh nghiệp và xã hội. Không thể có chuyển đổi số các cơ quan thuộc hệ thống chính trị thành công nếu thiếu đi sự phát triển của kinh tế số, sự tham gia của xã hội số và ngược lại.

Dự án Luật Chuyển đổi số đang được Quốc hội xem xét cho ý kiến và dự kiến thông qua tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV. Theo Tờ trình của Chính phủ, việc xây dựng Luật Chuyển đổi số nhằm cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Dự án Luật gồm 8 Chương, 79 Điều, quy định về hạ tầng, Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số và các biện pháp bảo đảm chuyển đổi số nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về chuyển đổi số quốc gia, điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia hoạt động trên môi trường số, thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện và tăng cường hợp tác quốc tế.

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng trình bày Tờ trình dự án Luật Chuyển đổi số

Quá trình xây dựng dự án luật, cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan thẩm tra và các bên liên quan đã làm việc với tinh thần trách nhiệm rất cao và tốc độ làm việc hết sức khẩn trương. Dự án luật được xây dựng theo trình tự thủ tục rút gọn, do đó thời gian không nhiều nhưng lại đặt ra yêu cầu rất cao về chất lượng chuyên môn bởi là luật khung, điều chỉnh nhiệm vụ tổng thể quá trình chuyển đổi số với những quy định chung nhất có liên quan đến nhiều luật, nghị quyết đã có hiệu lực hoặc đang được xây dựng, thông qua tại kỳ họp thứ 10. Dự thảo Luật Chuyển đổi số được Chính phủ chỉ đạo chỉnh lý, hoàn thiện trên cơ sở tiếp thu tối đa các ý kiến kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ý kiến thẩm tra của Ủy ban KHCN&MT của Quốc hội, dự thảo luật đã được chỉnh lý, tinh gọn từ 8 chương với 79 điều xuống còn 8 chương với 51 điều (tức là giảm 28 điều).

Tuy nhiên, dự thảo luật trình Quốc hội thảo luận cho ý kiến vẫn còn nhiều vấn đề, nội dung cần được tiếp tục rà soát, đánh giá kỹ lưỡng nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và khả thi trước khi thông qua. Một số vấn đề cụ thể cần xem xét đánh giá như sau:

Vấn đề thứ nhất là về tên gọi của dự án luật.

Qua báo cáo tổng hợp ý kiến góp ý của các cơ quan liên quan trong hồ sơ dự án luật cho thấy còn nhiều ý kiến băn khoăn và đề xuất một số tên gọi khác nhau. Tuy nhiên, với những ý kiến đề xuất từ phía cơ quan thẩm tra và giải trình tiếp thu của Chính phủ tại Báo cáo số 1033/BC-CP ngày 05/11/2025, tên gọi của luật là Luật Chuyển đổi số là hết sức phù hợp và có cơ sở. Tên gọi theo dự thảo luật trình đảm bảo sự phù hợp với phạm vi điều chỉnh, nội hàm quản lý, bảo đảm tính đồng bộ với pháp luật hiện hành khi Luật được triển khai. Đồng thời, như giải trình của Chính phủ, tên gọi theo dự thảo trình còn chứa đựng hàm ý về sự thay đổi sâu sắc, tổng thể, toàn diện mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, tác động đến cách sống, cách làm việc, tư duy, thói quen, văn hóa, mô hình hoạt động, phương thức tạo ra giá trị mới… Do vậy, cơ quan soạn thảo cũng như Quốc hội cần thống nhất giữ nguyên tên gọi như đã nêu trên.

Vấn đề thứ hai là quy định về các hành vi bị cấm tại Điều 5

Nghiên cứu kỹ lưỡng nội dung các hành vi bị cấm tại Điều 5 dự thảo luật, đối soát với quy định tại các luật đã ban hành cũng như một số dự thảo luật đang được tiến hành sửa đổi, về cơ bản những hành vi bị cấm tại dự thảo luật này đều đã được quy định tại các luật chuyên ngành như Luật Công nghiệp công nghệ số, Luật Dữ liệu, Luật Giao dịch điện tử, Luật Viễn thông, Luật An toàn thông tin mạng, Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân, Luật Cạnh tranh, Các luật về thuế... hoặc các luật đang sửa đổi như: Luật Thương mại điện tử, Luật An ninh mạng. Như vậy, đang có sự trùng lặp trong quy định giữa dự thảo luật này và các luật khác như vừa nêu, không phù hợp với quan điểm xây dựng luật là luật khung, chỉ quy định những nguyên tắc chung, không đi sâu vào chi tiết các hành vi cụ thể, không quy định lại các nội dung đã được pháp luật khác điều chỉnh.

Xem xét nội dung cụ thể tại khoản 2 Điều 5 quy định: “2. Can thiệp, truy cập trái pháp luật, phá hoại, làm sai lệch, chiếm đoạt, hủy hoại hạ tầng cho chuyển đổi số, nền tảng số, hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu nhằm che giấu tội phạm, cản trở hoạt động tư pháp hoặc gây tổn hại đến an ninh kinh tế số.”

Toàn cảnh thảo luận tại Tổ 3 gồm các tỉnh Thanh Hóa và Tây Ninh

Nếu phân tích về mặt ngữ pháp, kết cấu ngữ nghĩa hoặc tính logic giữa các mệnh đề trong câu cho thấy, điều khoản của luật liệt kê một loạt hành vi xâm phạm đến hạ tầng cho chuyển đổi số, nền tảng số, hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu … nhưng vế sau của câu đó là các hành vi xâm phạm như đã liệt kê nhằm che giấu tội phạm, cản trở hoạt động tư pháp hoặc gây tổn hại đến an ninh kinh tế số. Như vậy, về mặt logic hoặc thực tế đặt ra nếu các hành vi như đã liệt kê được thực hiện nhưng không nhằm mục đích che giấu tội phạm, cản trở hoạt động tư pháp hoặc gây tổn hại đến an ninh kinh tế số thì có vi phạm điều cấm của luật này hay không. Câu trả lời đã rõ là quy định nêu trên không chặt chẽ, không phù hợp.

Luật Chuyển đổi số được xem là “xương sống” pháp lý cho tiến trình số hóa quốc gia, không phải là luật kỹ thuật, mà là luật điều phối, tổ chức và kiến tạo hệ sinh thái số thống nhất. Vì vậy, ban soạn thảo cần rà soát kỹ lưỡng lại các quy định tại Điều 5 của dự thảo luật để bảo đảm sự phù hợp với mục tiêu, quan điểm xây dựng cũng như phạm vi điều chỉnh của luật, bảo đảm sự chặt chẽ logic trong các quy định có liên quan; xem xét lại sự cần thiết phải quy định về các hành vi bị nghiêm cấm trong dự thảo luật này.

Vấn đề thứ ba là quy định về việc thu hút, trọng dụng chuyên gia về chuyển đổi số quy định tại Điều 35.

Tại điểm a khoản 2 Điều 35 quy định: Cơ quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước được phép thuê chuyên gia, cộng tác viên theo cơ chế đặc thù đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số: “a) Được chủ động lựa chọn hình thức và thời hạn giao kết với các nhân sự và chuyên gia trong nước, nước ngoài bao gồm hợp đồng dịch vụ, hợp đồng khoán gọn, hợp đồng lao động, hợp đồng thuê lại lao động.”

Cần xem xét rà soát lại quy định như vừa trích dẫn ở điểm a nêu trên để bảo đảm sự phù hợp với các quy định của pháp luật có liên quan. Bởi lẽ, dự thảo luật cho phép cơ quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước được chủ động lựa chọn hình thức và thời hạn giao kết hợp đồng lao động với chuyên gia trong nước và nước ngoài. Tuy nhiên, đối với lao động là người nước ngoài việc thực hiện các dịch vụ, hợp đồng lao động của của họ còn phải phụ thuộc một số điều kiện theo quy định của Bộ luật Lao động như giấy phép lao động…

Vấn đề thứ tư là quy định về việc ưu đãi cán bộ, công chức, viên chức làm công tác chuyển đổi số trong các cơ quan thuộc hệ thống chính trị tại Điều 36. Theo đó, dự thảo quy định thực hiện chế độ đãi ngộ đặc thù theo quy định của Chính phủ cho người làm công tác chuyển đổi số. Các hình thức đãi ngộ bao gồm: tiền lương, phụ cấp, điều kiện làm việc, cơ hội phát triển nghề nghiệp và các hình thức khen thưởng khác.   

Tuy nhiên, Luật Công nghệ thông tin hiện cũng có nội dung quy định tương tự và Chính phủ có quy định chính sách hỗ trợ dành cho người làm công tác chuyển đổi số tại Nghị định số 179/2025/NĐ-CP, ngày 01 tháng 7 năm 2025. Vì vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo xem xét rà soát để bảo đảm sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về nội dung này.                 


Đánh giá:

lượt đánh giá: , trung bình:


 Bình luận


Mã xác thực không đúng.
     Bình chọn
    Đánh giá của bạn về Cổng thông tin điện tử Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh Thanh Hóa
    636 người đã bình chọn
    Thống kê truy cập
    Thống kê: 6.053.887
    Trong năm: 1.730.511
    Trong tháng: 193.231
    Trong tuần: 47.987
    Trong ngày: 313
    Online: 73
    Zalo