Chiều ngày 13/2/2025, tại Nhà Quốc hội, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Quốc hội Thảo luận ở hội trường về dự án Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi). Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải điều hành nội dung phiên họp.

Tại phiên thảo luận, Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa có ý kiến phát biểu của đại biểu Cao Thị Xuân, Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội. Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh Thanh Hóa xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của đại biểu Cao Thị Xuân.

ĐBQH Cao Thị Xuân phát biểu tại phiên thảo luận

 

Kính thưa chủ tọa kỳ họp,

Kính thưa Quốc hội,

Tôi xin được tham gia 4 vấn đề vào dự thảo luật như sau:

Vấn đề thứ nhất, về những trường hợp được ban hành nghị quyết của Quốc hội. Theo Tờ trình của Chính phủ, để thực hiện chủ trương luật hóa đến mức tối đa những vấn đề quan trọng của đất nước thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội. Một điểm mới tại khoản 2 Điều 10 của dự thảo luật là quy định Quốc hội chỉ ban hành nghị quyết trong 3 trường hợp. Trong đó ngoài hai trường hợp được nêu cụ thể: Một là thực hiện thí điểm một số chính sách mới; Hai là, tạm ngưng điều chỉnh hiệu lực hoặc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần nghị quyết, luật, nghị quyết của Quốc hội đáp ứng yêu cầu cấp bách. Còn trường hợp thứ ba là vấn đề khác do Quốc hội quyết định là quy định có tính linh hoạt, dự phòng, còn lại đều phải ban hành luật để điều chỉnh. Tuy nhiên, đặt quy định này trong sự so sánh với điểm c khoản 1 Điều 10 của dự thảo Luật Tổ chức Chính phủ thì thấy quy định việc Quốc hội ban hành nghị quyết để thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ, thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính cấp tỉnh, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, như vậy phải chăng có sự thiếu thống nhất, chưa đồng bộ giữa 2 dự thảo luật trong xác định các trường hợp Quốc hội có thể ban hành nghị quyết hay phải hiểu nghị quyết của Quốc hội về thành lập, bãi bỏ bộ, thành lập, điều chỉnh địa giới hành chính cấp tỉnh không phải là văn bản quy phạm pháp luật mà chỉ là văn bản hành chính. Còn nếu xác định loại nghị quyết này là văn bản quy phạm pháp luật tôi thấy nên cân nhắc tại khoản 3 Điều 10, chuyển từ nội dung vấn đề khác do Quốc hội quyết định thành vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Quốc hội như quy định tại điểm e khoản 2 Điều 15 luật hiện hành sẽ hợp lý hơn.

Nội dung thứ hai, về trình tự xem xét thông qua dự thảo luật, nghị quyết của Quốc hội tại Điều 40. Thực tiễn xây dựng pháp luật cho thấy từ công đoạn đề xuất chính sách mới qua hoạt động tham vấn, thẩm tra, chỉnh lý đến công đoạn trình Quốc hội thông qua luật thì nội dung chính sách mới có thể thay đổi ở nhiều mức độ khác nhau để bảo đảm tính khả thi, phù hợp với thực tiễn.

Trong quy trình thông qua Luật hiện nay, một kinh nghiệm rất hay tôi nghĩ nên được luật hóa. Đó là, trước khi trình Quốc hội thông qua dự án luật thì báo cáo tiếp thu, giải trình, chỉnh lý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội luôn có một phần nêu rõ những điểm mới của các dự án luật sửa đổi, bổ sung. Để tiếp tục phát huy thực tiễn tốt này, tôi đề nghị bổ sung vào khoản 8 Điều 40 nội dung "Đối với dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung báo cáo tiếp thu, giải trình và chỉnh lý dự thảo cần làm rõ những nội dung chính sách mới so với chính sách hiện hành". Điều này sẽ rất thuận tiện cho công tác tuyên truyền, phổ biến, truyền thông chính sách, thuận lợi cho việc triển khai thi hành pháp luật cũng như cơ sở để giải thích pháp luật trong trường hợp cần thiết.

Nội dung thứ ba, về nguồn lực cho công tác xây dựng pháp luật. Tôi rất tán thành với những đổi mới mạnh mẽ về cơ chế bảo đảm nguồn lực cho công tác xây dựng pháp luật quy định tại Điều 69 và Điều 70 của dự thảo luật, gồm cả đãi ngộ đặc biệt về nhân lực, tài lực, đầu tư hiện đại hóa để tăng cường ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo. Tôi cho rằng đây là sự đầu tư xứng đáng cho một hệ thống pháp luật, đáp ứng 12 tiêu chí mà Bộ Chính trị đã đề ra trong Kết luận 119 về tính dân chủ, chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi, hiệu quả, minh bạch, dễ tiếp cận, dễ áp dụng, tiết kiệm thời gian, chi phí và đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng. Tuy nhiên, tôi đề nghị với việc tách bạch quy trình xây dựng chính sách và hoạt động xây dựng dự thảo cần quan tâm đầu tư ưu đãi nguồn lực ngay từ khâu nghiên cứu chính sách. Đề nghị nghiên cứu thể hiện khoản 1, khoản 2 Điều 70 tương thích, đồng bộ về nội dung này.

Nội dung thứ tư, về tham vấn góp ý với chính sách, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật tại Điều 6 và Điều 30. Tôi thống nhất với ý kiến của đại biểu Lưu Mai. Tôi xin tiếp cận ở một góc độ khác.

Kính thưa Quốc hội,

Theo quy định tại khoản 3 Điều 6 và khoản 2 Điều 30 của dự thảo luật thì cơ quan lập đề xuất chính sách thực hiện tham vấn Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, bộ, cơ quan ngang bộ đối với chính sách liên quan trực tiếp thuộc phạm vi, lĩnh vực phụ trách. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 3 Điều 75 của Hiến pháp năm 2013 thì khi ban hành quy định thực hiện chính sách dân tộc, Chính phủ phải lấy ý kiến của Hội đồng Dân tộc. Đây là quy định của Hiến pháp, thể hiện sự khác biệt về nhiệm vụ, quyền hạn giữa Hội đồng Dân tộc với các cơ quan của Quốc hội. Do đó, tôi đề nghị Ban soạn thảo cần phải cụ thể hóa nội dung tại khoản 3 Điều 15 của Hiến pháp vào dự thảo luật. Theo đó, tôi đề nghị bổ sung thêm một nội dung, đó là lấy ý kiến của Hội đồng Dân tộc đối với chính sách dân tộc nếu có vào Điều 6 và Điều 30 của dự thảo Luật.

Tôi xin hết ý kiến. Xin cảm ơn Quốc hội.


Đánh giá:

lượt đánh giá: , trung bình:


 Bình luận


Mã xác thực không đúng.
     Bình chọn
    Đánh giá của bạn về Cổng thông tin điện tử Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh Thanh Hóa
    637 người đã bình chọn
    Thống kê truy cập
    Thống kê: 6.082.506
    Trong năm: 1.742.030
    Trong tháng: 183.788
    Trong tuần: 43.704
    Trong ngày: 5.814
    Online: 105
    Zalo