Nghị quyết 72-NQ/TW nhấn mạnh: Sức khỏe là vốn quý nhất của con người, là nền tảng quan trọng nhất cho hạnh phúc của mọi người, cho sự tồn vong của dân tộc và sự phát triển thịnh vượng, bền vững của đất nước. Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân là mục tiêu, là động lực, là nhiệm vụ chính trị hàng đầu, giữ vị trí ưu tiên trong các chiến lược, chính sách phát triển; là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và mọi người dân.
Dự thảo Luật Phòng bệnh ra đời trong bối cảnh Việt Nam phải đối mặt với gánh nặng kép từ cả bệnh truyền nhiễm và sự gia tăng đáng báo động của các bệnh không lây nhiễm (NCDs), rối loạn sức khỏe tâm thần và các vấn đề dinh dưỡng không hợp lý dẫn đến hạn chế phát triển thể lực, tầm vóc người Việt; các điều kiện bảo đảm cho công tác phòng bệnh còn nhiều hạn chế… Dự thảo Luật được xây dựng nhằm thể chế hóa đầy đủ Nghị quyết số 72-NQ/TW của Bộ Chính trị về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân và Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu BCH TW khóa XII về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe Nhân dân trong tình hình mới.

Quốc hội thảo luận về dự án Luật Phòng bệnh
Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XV đang diễn ra, dự thảo Luật Phòng bệnh được Quốc hội cho ý kiến và xem xét thông qua. Để dự án luật khi được thông qua sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng giải quyết hiệu quả các vấn đề từ thực tế; bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe toàn diện cho nhân dân một cách thực chất, người viết xin góp ý một số vấn đề cụ thể sau:
Về bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của dự thảo luật.
Theo báo cáo của cơ quan chủ trì soạn thảo khẳng định, việc xây dựng Luật Phòng bệnh theo hướng luật khung, chỉ quy định những nguyên tắc, chính sách cơ bản; với các nội dung đã được điều chỉnh trong pháp luật chuyên ngành sẽ tiếp tục được điều chỉnh tại các luật đó, nhằm bảo đảm sự thống nhất, tránh chồng chéo, mâu thuẫn trong hệ thống. Tuy nhiên, cũng theo các báo cáo cho thấy, qua rà soát có tới 63 văn bản cấp độ luật có quy định điều chỉnh các hoạt động liên quan đến lĩnh vực phòng bệnh, nâng cao sức khỏe. Song, cơ quan chủ trì soạn thảo mới chỉ đánh giá quy định của dự thảo Luật với 03 luật là Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm, Luật Phòng thủ dân sự và Luật An toàn thực phẩm. Việc rà soát, đánh giá tính đồng bộ, thống nhất của dự thảo luật với các luật hiện hành cũng như với một số dự án luật đang trình tại Kỳ họp thứ 10 là hết sức quan trọng, quyết định tới việc Luật sẽ đi vào cuộc sống như thế nào, có bảo đảm tính khả thi, tính đồng bộ thống nhất hay không.
Do đó, cơ quan chủ trì cũng như các cơ quan thẩm tra cần xem xét rà soát, đánh giá kỹ lưỡng để đảm bảo cả việc thể chế hóa đầy đủ các chủ trương, nghị quyết của Đảng, đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất giữa Luật Phòng bệnh với các luật, nghị quyết có liên quan.
Về bảo đảm tính khả thi của nguyên tắc huy động xã hội.
Nghị quyết số 72-NQ/TW đưa ra quan điểm chỉ đạo: “Có chính sách, cơ chế đột phá trong huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực để nâng cao chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe nhân dân”. Theo đó, dự thảo luật đã thể chế hóa quan điểm này trong các quy định tại khoản 1, khoản 8 Điều 3 đó là: “Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, định hướng và huy động xã hội thực hiện chính sách phòng bệnh, giải quyết toàn diện, đồng bộ các vấn đề về phòng bệnh”; “Có chính sách ưu đãi về thuế, đất đai, tín dụng và các cơ chế ưu đãi khác theo quy định của pháp luật để khuyến khích, động viên, huy động mọi nguồn lực xã hội tham gia công tác phòng bệnh” và tại khoản 4 Điều 4 quy định về nguyên tắc trong phòng bệnh đó là “Phối hợp liên ngành và huy động xã hội trong việc triển khai hoạt động y tế dự phòng”.
Đây là một trong số những quan điểm chủ đạo trong quá trình xây dựng chính sách và đã được thể hiện xuyên suốt trong các nội dung của dự thảo Luật. Thực tế trong đại dịch Covid-19 nếu không có những nguồn lực từ việc huy động sự đóng góp trong xã hội, chúng ta sẽ không có được kết quả như đã biết. Mặt khác, chúng ta cũng đều biết một thực tế là xã hội nói chung, ngành y tế nói riêng lâu nay vẫn đang chú trọng việc “điều trị bệnh” hơn là “phòng bệnh”. Việc chuyển từ tư duy “khám bệnh, chữa bệnh” sang “chủ động phòng bệnh” không thể diễn ra trong một sớm, một chiều mà cần có thời gian, cần có lộ trình cụ thể để thay đổi thói quen, nhận thức đã ăn sâu, bám rễ trong xã hội, trong Nhân dân. Quá trình đó cần phải có sự chung tay, góp sức của cộng đồng, của xã hội cả về nhận thức, hành động, nguồn lực mới có thể thay đổi để tạo nên một xã hội khỏe mạnh. Việc huy động xã hội đó chỉ có thể khả thi nếu các chính sách đi kèm với những thể chế được minh bạch, cụ thể và rõ ràng. Các chính sách ưu đãi như thuế, đất đai, tín dụng… phải được hướng dẫn chi tiết, kịp thời trong các văn bản dưới Luật để khu vực tư nhân có cơ sở đầu tư vào y tế dự phòng, nghiên cứu, sản xuất vắc-xin, và các dịch vụ phòng bệnh khác. Phải có sự minh định một cách rõ ràng giữa các dịch vụ do Nhà nước cung cấp (miễn phí) và dịch vụ xã hội hóa, tránh tình trạng "xã hội hóa" nhưng vẫn sử dụng nguồn lực và cơ sở vật chất công lập một cách không minh bạch.

Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa thảo luận tại tổ về dự án Luật Phòng bệnh
Về tính khả thi trong chính sách phòng, chống bệnh không lây nhiễm và rối loạn sức khỏe tâm thần.
Về Khám sức khỏe định kỳ và Khám sàng lọc (Điều 27 dự thảo luật), kinh phí thực hiện các chính sách này được lấy từ NSNN, Quỹ BHYT, Quỹ Phòng bệnh và các nguồn hợp pháp khác. Đây là chính sách được xây dựng để thể chế hóa Nghị quyết 72-NQ/TW. Tuy nhiên, khả năng cân đối Quỹ BHYT và NSNN để thực hiện việc chi trả cho hoạt động sàng lọc, tầm soát bệnh tật là một thách thức rất lớn. Mặt khác, trong điều kiện sắp xếp tổ chức chính quyền 2 cấp theo mô hình mới, các Trạm y tế xã là nơi triển khai thực hiện chủ yếu các hoạt động này. Với điều kiện cơ sở vật chất, con người hiện tại nếu hoạt động Khám sức khỏe định kỳ và Khám sàng lọc được thực hiện từ 01/01/2026 như dự thảo luật quy định cũng sẽ là khó khăn cần có lời giải. Do đó, mặc dù dự thảo luật đã có quy định nhưng cần phải xây dựng một lộ trình hết sức khoa học, cụ thể với danh mục bệnh, đối tượng hoặc nhóm đối tượng ưu tiên để đảm bảo tính khả thi trong việc phân bổ kinh phí, đặc biệt là việc mở rộng chi trả từ Quỹ BHYT cho dịch vụ dự phòng; đảm bảo điều kiện, khả năng thực hiện nhiệm vụ của y tế tuyến cơ sở.
Về Phòng, chống Rối loạn Sức khỏe Tâm thần: lần đầu tiên chính sách này được luật hóa với những quy định cụ thể về các yếu tố nguy cơ, biện pháp phát hiện sớm, theo dõi và phòng ngừa rối loạn sức khỏe tâm thần; quyền và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hỗ trợ và trị liệu. Đây là chính sách xã hội hết sức ý nghĩa, giảm gánh nặng chi phí điều trị rối loạn tâm thần. Tuy nhiên, như trên đã nói với thực trạng hiện nay để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của chính sách cần phải đảm bảo nguồn nhân lực về nhân viên y tế dự phòng, tâm lý tại tuyến cơ sở có đủ năng lực để thực hiện các biện pháp dự phòng, phát hiện sớm và quản lý tại cộng đồng, bao gồm cả hỗ trợ tâm lý sau sang chấn, thảm họa.
Về nội dung sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Bảo hiểm y tế tại Điều 45 dự thảo luật.
Tại điểm b về việc sửa đổi khoản 3 Điều 23 của Luật Bảo hiểm y tế quy định: “3. Khám sức khỏe, trừ khám sức khỏe định kỳ và khám sàng lọc.”. Đề nghị rà roát lại nội dung này bởi việc sửa đổi này là không cần thiết, trùng lặp và không bảo đảm về mặt kỹ thuật lập pháp, bởi lẽ nội dung “khám sức khỏe định kỳ và khám sàng lọc” đã được sửa đổi bổ sung vào trong điểm d khoản 1 Điều 21 Luật Bảo hiểm y tế. Do đó, nội dung này cũng thuộc trường hợp không được hưởng bảo hiểm y tế do đã được ngân sách nhà nước chi trả theo quy định tại khoản 1 Điều 23 mà không cần quy định lại tại khoản 3 Điều 23 của Luật Bảo hiểm y tế.
Trên đây là một số ý kiến góp ý trên cơ sở nghiên cứu của cá nhân, người viết rất mong nhận được sự quan tâm, chia sẻ từ bạn đọc cũng như từ phía các cơ quan chủ trì soạn thảo và thẩm tra để người dân có thể được thụ hưởng một cách thực chất, hiệu quả các chính sách mà dự thảo Luật Phòng bệnh mang lại.