Tiếp thu ý kiến, kiến nghị của cử tri do Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh thông báo tại Kỳ họp thứ 5, HĐND tỉnh khoá XVI, UBND tỉnh đã chỉ đạo các ngành, đơn vị có liên quan tập trung giải quyết những vấn đề cử tri đã kiến nghị, kết quả thực hiện như sau:
1.
Cử tri đề nghị cần ban hành chính sách chính sách hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng
vùng sản xuất cói.
Hiện nay, trên địa bàn toàn tỉnh
có 5.000 ha đất trồng cói, tập trung chủ yếu trên địa bàn các huyện Nga Sơn và
Quảng Xương. Trong những năm qua, cây cói là một trong những cây trồng chủ lực
trong cơ cấu phát triển nông nghiệp và nghề cói đã trở thành nghề truyền thống,
góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân
vùng cói.
Tuy nhiên,
diện tích, sản lượng cói của các xã vùng cói trong những năm qua phát triển
không ổn định và sản xuất cói đang gặp khó khăn do giống năng suất thấp, đầu tư
thâm canh hạn chế, hệ thống thủy lợi nội đồng chưa được đầu tư xây dựng; cơ sở
vật chất phục vụ chế biến cói còn lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu; thị
trường tiêu thụ nguyên liệu, sản phẩm cói không ổn định, giá cói phụ thuộc
nhiều vào thị trường Trung Quốc; giá vật tư, nguyên liệu đầu vào tăng cao nên
hiệu quả của nghề cói thấp, đời sống người trồng cói gặp nhiều khó khăn.
Để có cơ sở đầu tư đồng bộ hạ
tầng, nâng cao năng suất, sản lượng, chất lượng cây cói nhằm giảm giá thành,
nâng cao khả năng cạnh tranh của nguyên liệu, sản phẩm cói, UBND tỉnh đã chỉ
đạo và phối hợp với Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đưa giống cói bông trắng
vào sản xuất; đồng thời ban hành Quyết định số 2241/QĐ-UBND ngày 18/7/2012 phê
duyệt quy hoạch vùng cói tỉnh Thanh Hóa đến năm 2020. Trong quy hoạch đã xác
định rõ định hướng, giải pháp phát triển sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm
cói đến năm 2020. Tuy nhiên, do điều kiện ngân sách tỉnh còn khó khăn nên chưa
có điều kiện cân đối, bố trí vốn đầu tư cơ sở hạ tầng vùng cói theo quy hoạch. UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Nông nghiệp và PTNT nghiên cứu,
đề xuất cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, chế biến, tiêu thụ
sản phẩm cói để đưa vào Chương trình công tác của UBND tỉnh, trình HĐND tỉnh
xem xét, quyết định khi cân đối được nguồn vốn.
2.
Cử tri phản ánh giá thu mua mía nguyên liệu vụ ép 2012-2013 là quá thấp, ảnh
hưởng đến thu nhập và đời sống của người trồng mía.
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp
và PTNT tại hội nghị tổng kết sản xuất mía đường niên vụ 2012 - 2013, do ảnh
hưởng của suy giảm kinh tế và thực hiện cam kết gia nhập Tổ chức thương mại thế
giới (WTO) nên cung - cầu đường trên thị trường trong nước mất cân đối, cung
lớn hơn cầu khoảng 200.000 tấn, dẫn đến giá đường niên vụ 2012 - 2013 thấp hơn
nhiều so với cùng kỳ năm trước. Ở Thanh Hóa, giá đường kính trắng trước thuế tại
nhà máy khoảng 14 triệu đồng/tấn, có thời điểm giảm xuống 13 triệu đồng/tấn,
thấp hơn so với cùng kỳ từ 4-5 triệu đồng/tấn.
Trước tình hình trên, UBND tỉnh
đã chỉ đạo Sở Nông nghiệp và PTNT tổ chức đi khảo sát thực địa, tìm hiểu tâm
tư, nguyện vọng của các nhà máy đường và người trồng mía; tổ chức hội nghị với
các ngành liên quan, các địa phương trong vùng nguyên liệu mía và các nhà máy
đường để bàn giải pháp thu mua, chế biến mía niên vụ 2012 - 2013. Hội nghị đã
bàn bạc và thống nhất giá thu mua mía nguyên liệu niên vụ 2012-2013 là 950.000
đồng/tấn mía sạch 10CCS tại bãi bốc xếp hoặc nơi mà xe ô tô có thể ra vào. Ngay
sau hội nghị, các công ty mía đường đã thông báo công khai giá thu mua mía
nguyên liệu niên vụ 2012 – 2013 cho nhân dân biết và tổ chức thu mua theo đúng
giá đã thông báo. Như vậy, giá thu mua mía nguyên liệu niên vụ ép 2012-2013
được xác định như trên là hoàn toàn phù hợp, đảm bảo hài hòa lợi ích giữa doanh
nghiệp sản xuất đường và người trồng mía.
3.
Cử tri đề nghị tăng cường kiểm tra hoạt động kinh doanh giống cây trồng và vật
tư nông nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Trong những năm qua, UBND tỉnh đã ban hành nhiều văn
bản chỉ đạo các ngành, UBND các huyện, thị xã, thành phố tăng cường quản lý
chất lượng vật tư hàng hóa nông nghiệp và vệ sinh an toàn thực phẩm; đẩy mạnh
công tác thông tin, tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của người sản xuất,
kinh doanh và người dân về chất lượng giống cây trồng và vật tư nông nghiệp;
ứng dụng rộng rãi các tiến bộ khoa học kỹ thuật để sản xuất giống mới có năng
suất, chất lượng cao; tăng cường kiểm tra, đánh giá, phân loại các cơ sở sản
xuất kinh doanh giống cây trồng, phân bón, nên chất lượng giống cây trồng và
phân bón không ngừng được nâng lên, góp phần nâng cao năng suất, sản lượng và
hiệu quả của ngành sản xuất nông nghiệp.
Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và PTNT, công tác
thanh tra, kiểm tra chất lượng giống cây trồng, phân bón trên địa bàn tỉnh
trong những năm qua chưa phát hiện có phân bón giả, giống cây giả lưu hành trên
thị trường. Trong các năm 2009 – 2012, qua kiểm tra cho thấy tỷ lệ mẫu giống vi
phạm khi kiểm nghiệm giao động trong khoảng 6 - 9%, chủ yếu là vi phạm nhãn mác
hàng hóa; tỷ lệ mẫu phân bón kiểm nghiệm vi phạm chất lượng giao động trong
khoảng 5,5-11,5%. Các vi phạm về giống cây trồng và phân bón đều được các cơ
quan chức năng phát hiện kịp thời, xử phạt nghiêm theo quy định, thu nộp ngân
sách trên 500 triệu đồng; đồng thời thông báo công khai các cơ sở sản xuất,
kinh doanh giống cây trồng, phân bón vi phạm chất lượng trên trang thông tin
điện tử của Sở Nông nghiệp và PTNT để nhân dân biết, phòng tránh.
4. Cử tri huyện Bá
Thước đề nghị chuyển đổi diện tích đất lâm nghiệp hiệu quả thấp sang trồng mía
nguyên liệu.
Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và PTNT, diện tích
đất lâm nghiệp hiệu quả thấp trên địa bàn huyện Bá Thước mà cử tri đề nghị
chuyển sang trồng mía nguyên liệu là diện tích đất của Công ty Lâm nghiệp Cẩm
Ngọc quản lý, sử dụng; đã được UBND tỉnh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
nằm trong vùng quy hoạch nguyên liệu giấy của Nhà máy giấy Châu Lộc đã được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt dự án đầu tư tại Quyết định số 223/2003/QĐ-TTG ngày
03/11/2003, do Tổng công ty Giấy Việt Nam làm chủ đầu tư.
Hiện
nay, Công ty Lâm nghiệp Cẩm Ngọc đang sản xuất, kinh doanh trồng rừng gỗ nguyên
liệu và trồng luồng trên diện tích được giao quản lý. Vì vậy, việc chuyển đổi
mục đích sử dụng đất lâm nghiệp sang đất trồng mía nguyên liệu phải có ý kiến
của Thủ tướng Chính phủ và Tổng công ty Giấy Việt Nam. Sở Nông nghiệp và PTNT đang
đấu mối, làm việc với Tổng công ty Giấy Việt Nam về nội dung cử tri đề nghị, báo
cáo Chủ tịch UBND tỉnh xem xét, giải quyết.
5. Cử tri đề nghị đẩy nhanh tiến độ bàn giao
đất của Công ty TNHH một thành viên Cao su Thanh Hóa (Nông trường Bãi Trành)
cho nhân dân quản lý, sử dụng.
Thực
hiện Quyết định số 1596/QĐ-UBND ngày 28/5/2009 của UBND tỉnh về việc thu hồi
đất của Nông trường Bãi Trành (nay là Công ty TNHH một thành viên Cao su Thanh
Hóa) giao cho UBND các xã Xuân Hòa, Xuân Bình, Bãi Trành, huyện Như Xuân quản
lý, Sở Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với UBND huyện Như Xuân hướng dẫn,
đôn đốc Công ty TNHH một thành viên Cao su Thanh Hóa và UBND các xã Xuân Bình,
Xuân Hòa, Bãi Trành triển khai thực hiện quyết định nêu trên của UBND tỉnh. Tuy
nhiên, do chưa thống nhất được ranh giới sử dụng đất và việc xử lý tài sản trên
đất giữa UBND huyện Như Xuân và Công ty TNHH một thành viên Cao su Thanh Hóa
nên chưa bàn giao đất cho UBND các xã Xuân Hòa, Xuân Bình, Bãi Trành, huyện Như
Xuân quản lý, sử dụng theo quyết định của UBND tỉnh.
Trước tình
hình trên, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp
với UBND huyện Như Xuân và Công ty TNHH một thành viên Cao su Thanh Hóa xác
định ranh giới sử dụng đất; Sở Tài chính chủ trì, phối hợp với Sở Nông nghiệp
và PTNT, UBND huyện Như Xuân, Công ty một thành viên Cao su Thanh Hóa và các tổ
chức, cá nhân liên quan xác định giá trị tài sản trên đất; UBND huyện Như Xuân
chỉ đạo UBND các xã Xuân Hòa, Xuân Bình, Bãi Trành, huyện Như Xuân phối hợp với
Công ty TNHH một thành viên Cao su Thanh Hóa khẩn trương hoàn thành hồ sơ, thủ
tục để tiến hành bàn giao đất trên thực địa theo Quyết định số 1596/QĐ-UBND
ngày 28/5/2009 của UBND tỉnh.
6.
Cử tri huyện Mường Lát đề nghị đầu tư khai hoang 240 ha ruộng bậc thang để ổn
định sản xuất và đời sống cho nhân dân các xã Pù Nhi và Nhi Sơn, huyện Mường
Lát.
Thực hiện ý kiến kiến nghị của cử
tri, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Nông nghiệp và PTNT chủ trì, phối hợp với UBND
huyện Mường Lát và UBND các xã Pù Nhi, Nhi Sơn, huyện Mường Lát kiểm tra, rà
soát diện tích đất đề nghị đầu tư khai hoang. Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp
và PTNT tổng diện tích đất thực tế đề nghị khai hoang là 320 ha, trong đó có 29
ha đất nông nghiệp chưa giao quản lý, sử dụng và 291 ha đất lâm nghiệp thuộc
quy hoạch rừng sản xuất, đã được giao cho nhân dân quản lý, sử dụng lâu dài
theo Nghị định số 02/CP ngày 15/3/1995 của Chính phủ. Tuy nhiên, diện tích đất
trên bà con nông dân không áp dụng các biện pháp thâm canh, sản xuất phụ thuộc
hoàn toàn vào điều kiện tự nhiên nên năng suất cây trồng thấp và không ổn định.
Để diện tích đất khai hoang của 2
xã Pù Nhi, Nhi Sơn, huyện Mường Lát được hưởng chính sách đầu tư cải tạo thành
ruộng bậc thang theo quy định của Nhà nước, UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện
Mường Lát rà soát 291 ha đất lâm nghiệp thuộc quy hoạch rừng sản xuất, nếu đủ
điều kiện sản xuất lương thực và phù hợp với quy chế quản lý rừng thì hỗ trợ 05
triệu đồng/ha theo hướng dẫn tại Thông tư số 08/2009/TT-BNN ngày 26/02/2009 của
Bộ Nông nghiệp và PTNT. Riêng đối với 29 ha đất chưa giao quản lý, sử dụng,
trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất lúa đã được phê duyệt, UBND huyện
Mường Lát chỉ đạo tổ chức khai hoang, phục hóa, cải tạo, nâng cao chất lượng
đất để sản xuất lương thực và thực hiện hỗ trợ khai hoang, cải tạo đất trồng
lúa theo hướng dẫn tại Thông tư số 205/2012/TT-BTC ngày 23/11/2012 của Bộ Tài
chính.
7.
Cử tri đề nghị đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp các công trình thủy lợi nhằm
khắc phục tình trạng ngập úng, khô hạn, xâm nhập mặn trên địa bàn các huyện
Tĩnh Gia, Thọ Xuân, Thiệu Hóa, Đông Sơn, Vĩnh Lộc và Thường Xuân.
Trong những năm qua, được sự quan
tâm hỗ trợ của Trung ương, cùng với sự nỗ lực, cố gắng của các cấp, các ngành
trong tỉnh, nhiều công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh được đầu tư xây dựng,
đã khắc phục cơ bản tình trạng ngập úng, khô hạn, xâm nhập mặn, cải thiện điều
kiện sản xuất, góp phần xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân. Tuy
nhiên, do ngân sách tỉnh còn khó khăn, nguồn vốn Trung ương hỗ trợ cho tỉnh
hàng năm rất hạn hẹp nên vẫn còn một số công trình, dự án thủy lợi quan trọng
rất cần được đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp
nhưng chưa cân đối được nguồn vốn như: hệ
thống tiêu sông Hoàng; h ệ thống tiêu Thọ Xuân; hệ thống tiêu Ê – Trường Tuế và
Tân Thành – Chiếu Thượng, huyện Đông Sơn; trạm bơm tiêu Quan Hoa, huyện Thọ
Xuân; trạm bơm tưới xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc; trạm bơm tiêu xã Thiệu Hòa,
huyện Thiệu Hóa; hồ chứa nước thôn Vịn, xã Bát Mọt, huyện Thường Xuân.
Trong điều kiện ngân sách tỉnh
còn khó khăn, để khắc phục tình trạng ngập úng, khô hạn, xâm nhập mặn trên địa
bàn các huyện nêu trên, UBND tỉnh đã chỉ đạo các ngành, các địa phương tập
trung huy động nguồn lực tại chỗ để khắc phục; đồng thời tích cực đấu mối với
các Bộ, ngành Trung ương để được hỗ trợ vốn đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp
các công trình thủy lợi, cải thiện điều kiện sản xuất cho nhân dân.
8.
Cử tri đề nghị sửa chữa, khắc phục tình trạng xuống cấp của mặt đê hữu sông Mã,
đoạn qua xã Thiệu Khánh, xã Thiệu Dương, thành phố Thanh Hóa; đầu tư xây dựng
đê mới chống lũ cho các hộ dân xã Vĩnh Quang, huyện Vĩnh Lộc.
Tiếp thu ý kiến kiến nghị của cử tri, UBND
tỉnh đã chỉ đạo Sở Nông nghiệp và PTNT phối hợp với các địa phương, đơn vị liên
quan kiểm tra thực tế, đề xuất biện pháp xử lý, khắc phục, báo cáo Chủ tịch
UBND tỉnh.
- Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp
và PTNT, mặt đê hữu sông Mã, đoạn qua xã Thiệu Khánh, xã Thiệu Dương có chiều
dài khoảng 3,4 km, đã được đầu tư gia cố bằng bê tông năm 2008 nhưng do có
nhiều xe chở quá tải tham gia giao thông nên mặt đê nhiều đoạn đã xuống cấp
nghiêm trọng, không đảm bảo an toàn đê điều, có nguy cơ mất an toàn giao thông
và gây khó khăn cho công tác cứu hộ, hộ đê khi có sự cố xảy ra.
Trước tình hình trên, Sở Nông
nghiệp và PTNT đã chỉ đạo Chi cục Đê điều và PCLB Thanh Hóa phối hợp với UBND
các xã Thiệu Dương, Thiệu Khánh thường xuyên kiểm tra, xử lý nghiêm tình trạng
xe chở quá tải đi trên tuyến đê. Sau khi xử lý dứt điểm tình trạng xe chở quá
tải đi trên tuyến đê, UBND tỉnh sẽ báo cáo Bộ Nông nghiệp và PTNT xin chủ
trương tu bổ, gia cố mặt đê đã bị hư hỏng, xuống cấp, đảm bảo an toàn đê điều,
phục vụ công tác cứu hộ, hộ đê trong mùa mưa bão.
- Đoạn đê tả sông Mã, xã Vĩnh
Quang, huyện Vĩnh Lộc có chiều dài 3 km, đã được đầu tư tu bổ, gia cố mặt đê
bằng bê tông, đảm bảo yêu cầu chống lũ và cải thiện điều kiện giao thông cho
nhân dân. Tuy nhiên, khu vực phía sông đoạn từ km0 - km2 có một bãi lớn, diện
tích khoảng 115 ha, đang có 700 hộ/2.800 người của 03 thôn Tiến Ích, Lê Sơn và
Cẩm Hoàng, xã Vĩnh Quang sinh sống. Hàng năm, khi nước lũ trên sông Mã lên đến mức
báo động cấp III, toàn bộ khu vực bãi sông ngập sâu trong nước, gây thiện hại
lớn về tài sản, ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống của nhân dân.
Để có giải pháp tổng thể phòng,
chống lũ và đê điều trên hệ thống sông Mã, UBND tỉnh đã giao Chi cục Đê điều và
PCLB Thanh Hóa làm chủ đầu tư, lập quy hoạch phòng, chống lũ và đê điều hệ
thống sông Mã, trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, phê duyệt để triển khai
thực hiện. Tuy nhiên, khu vực bãi sông của xã Vĩnh Quang, huyện Vĩnh Lộc không
nằm trong hành lang thoát lũ của sông Mã nên không phải tổ chức di rời dân cư
và không được đầu tư xây dựng hệ thống đê bao bảo vệ. Sau khi có quy hoạch
phòng chống lũ và đê điều hệ thống sông Mã được duyệt, UBND tỉnh sẽ báo cáo các
Bộ, ngành Trung ương hỗ trợ nhân dân xây dựng nhà sàn tránh lũ và các công
trình phúc lợi để bảo vệ an toàn tính mạng, tài sản, ổn định sản xuất và đời
sống nhân dân khu vực bãi sông của xã Vĩnh Quang, huyện Vĩnh Lộc. Trước mắt,
yêu cầu Sở Nông nghiệp và PTNT, UBND huyện Vĩnh Lộc chỉ đạo các cơ quan, đơn vị
liên quan theo dõi chặt chẽ diễn biến mực nước sông Mã, kịp thời di dời nhân
dân khu vực bãi sông xã Vĩnh Quang, huyện Vĩnh Lộc đến nơi an toàn khi có lũ
đến mức báo động nguy hiểm.
9.
Cử tri huyện Quan Hóa đề nghị đẩy nhanh tiến độ công trình Thủy điện Hồi Xuân:
Dự án thủy điện Hồi Xuân do Tổng
công ty cổ phần xây dựng Việt Nam(VNECO) làm chủ đầu theo hình thức Hợp đồng Xây dựng - Sở hữu - Kinh
doanh (BOO), được triển khai đầu tư xây dựng tháng 7 năm 2010, kế hoạch hoàn
thành đầu tư, đưa vào khai thác, sử dụng vào năm 2015. Đến nay, giá trị khối
lượng thực hiện mới đạt 13%; tiến độ thực hiện chậm khoảng 25 tháng so với kế
hoạch; nguyên nhân chủ yếu là do chủ đầu tư gặp khó khăn trong việc thu xếp vốn
thực hiện dự án.
Trước tình hình trên, chủ đầu tư
đã nỗ lực tìm kiếm nguồn vốn vay thực hiện dự án và đã được Ngân hàng Xuất nhập
khẩu Trùng Khánh, Trung Quốc chấp nhận khoản vay 97,7 triệu USD. Hiện nay, chủ
đầu tư đang hoàn thiện hồ sơ, thủ tục vay vốn để được cấp bảo lãnh Chính phủ và
ký hiệp định vay vốn với Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trùng Khánh. Dự kiến khoản
vay của dự án trên sẽ được giải ngân lần đầu tiên vào tháng 8 năm 2013.
Để tạo điều kiện đẩy nhanh tiến
độ thực hiện dự án thủy điện Hồi Xuân, UBND tỉnh đã thường xuyên đi kiểm tra,
đôn đốc chủ đầu tư và chỉ đạo các ngành liên quan, UBND huyện Quan Hóa tập
trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ bồi thường giải phóng mặt
bằng, di dân tái định cư, đáp ứng yêu cầu mặt bằng thi công ngay sau khi khoản
vay nêu trên của dự án được giải ngân.
10.
Cử tri các huyện Quảng Xương, Như Xuân, Như Thanh đề nghị hoàn trả vốn đầu tư
lưới điện hạ áp nông thôn do nhân dân đóng góp xây dựng đã bàn giao cho ngành điện
quản lý, khai thác.
Theo báo cáo của Sở Công Thương
trên địa bàn các huyện Quảng Xương, Như Xuân và Như Thanh có 58 công trình (58
xã) lưới điện hạ áp nông thôn được đầu tư từ nguồn vốn do nhân dân đóng góp.
Hiện nay, các địa phương đã và đang tiến hành bàn giao các công trình lưới điện
hạ áp nông thôn cho các đơn vị kinh doanh quản lý, bán điện theo quy định.
Trên địa bàn huyện Quảng Xương đã
có 06/25 công trình đã được hoàn trả vốn đầu tư,bàn giao cho Công ty cổ phần kinh doanh điện Thanh Hóa quản lý,
khai thác; 12/25 công trình đang hoàn chỉnh hồ sơ, thủ tục để thẩm định, trình
phê duyệt giá trị còn lại; 07/25 công trình đã hoàn thành hồ sơ, thủ tục bàn
giao nhưng chưa được Công ty cổ phần kinh doanh điện Thanh Hóa hoàn trả vốn đầu
tư theo quy định. Trên địa bàn huyện Như Xuân có 8/17 công trình đã hoàn thành
hồ sơ, thủ tục bàn giao nhưng chưa được Công ty Điện lực Thanh Hóa hoàn trả vốn
đầu tư; 9/17 công trình đang được thẩm định, trình phê duyệt giá trị còn lại để
làm cơ sở bàn giao cho Công ty Điện lực Thanh Hóa. Trên địa bàn huyện Như Thanh
đã có 01/16 công trình đã được hoàn trả vốn đầu tư,bàn giao cho Công ty điện lực Thanh Hóa quản lý, khai thác; 14/16
công trình đang được hoàn chỉnh hồ sơ, thủ tục bàn giao và 01 công trình do hợp
tác xã dịch vụ điện quản lý.
Như vậy, tiến độ
bàn giao, hoàn trả vốn đầu tư các công trình lưới điện hạ áp nông thôn do nhân
dân đóng góp trên địa bàn các huyện Quảng Xương, Như Xuân, Như Thanh còn chậm,
không đảm bảo theo quy định tại Thông tư Liên tịch số 06/2010/TTLT-BCT-BTC ngày
03/02/2010 của Bộ Công Thương, Bộ Tài chính về việc hướng dẫn giao nhận, hoàn
trả vốn đầu tư lưới điện hạ áp nông thôn. Nguyên nhân chủ yếu là do một số công
trình lưới điện hạ áp nông thôn không có đủ hồ sơ thủ tục đầu tư hoặc bị thất
lạc trong quá trình quản lý nên không có cơ sở pháp lý để xác định giá trị còn
lại; công tác chuẩn bị hồ sơ, thẩm định giá trị còn lại của một số công trình
còn chậm, ảnh hưởng đến tiến độ bàn giao, hoàn trả vốn đầu tư lưới điện hạ áp
nông thôn.
Để đẩy nhanh tiến độ giao, nhận và hoàn trả
vốn đầu tư cho các công trình lưới điện hạ áp nông thôn do nhân dân đóng góp
xây dựng, UBND tỉnh đã thành lập Ban chỉ đạo, ban hành nhiều văn bản chỉ đạo,
đôn đốc các ngành, đơn vị liên quan và các địa phương thực hiện; tập trung giải
quyết những khó khăn, vướng mắc trong việc xác định giá trị còn lại của công
trình, sớm hoàn thành hồ sơ, thủ tục để thẩm định và phê duyệt giá trị còn lại,
làm cơ sở cho việc bàn giao; chỉ đạo, đôn đốc các đơn vị kinh doanh điện hoàn
trả vốn đầu tư và tập trung huy động nguồn vốn để đầu tư nâng cấp lưới điện hạ
áp nông thôn sau khi tiếp nhận quản lý, đáp ứng nhu cầu điện năng phục vụ sản
xuất và sinh hoạt của nhân dân.
11.
Cử tri các huyện lang Chánh, Bá Thước đề nghị đầu tư xây dựng lưới điện nông
thôn đến các thôn, bản chưa có điện lưới quốc gia, đáp ứng nhu cầu sản xuất và
sinh hoạt của nhân dân.
Hiện nay, trên địa bàn các huyện
Lang Chánh và Bá Thước vẫn còn 57 thôn bản, với 3.754 hộ dân thuộc 19 xã chưa
có điện lưới quốc gia. Cử tri các huyện Lang Chánh và Bá Thước đề nghị đầu tư
xây dựng lưới điện nông thôn đến các thôn, bản chưa có điện lưới quốc gia là
nguyện vọng chính đáng. Tuy nhiên, do ngân sách tỉnh còn khó khăn và nhu cầu
đầu tư, nâng cấp hệ thống lưới điện nông thôn trên địa bàn tỉnh rất lớn nên đơn
vị được giao quản lý, khai thác hệ thống lưới điện của 19 xã nêu trên chưa có
điều kiện cân đối, bố trí vốn để đầu tư xây dựng lưới điện đến 59 thôn, bản của
các huyện Lang Chánh, Bá Thước chưa có điện lưới quốc gia.
Để sớm đầu tư xây dựng hệ thống
lưới điện quốc gia đến các thôn, bản chưa có điện trên địa bàn tỉnh nói chung
và các thôn, bản của các huyện Lang Chánh, Bá Thước nói riêng, UBND tỉnh đã có
Công văn số 617/UBND-CN ngày 24/01/2013 báo cáo Thủ tướng Chính phủ xin chủ
trương và cơ chế hỗ trợ vốn đầu tư dự án cấp điện đến các thôn, bản chưa có
điện lưới quốc gia. Ngày 06/02/2013, Thủ tướng Chính phủ đã có Công văn số
1142/VPCP-KTN đồng ý chủ trương đầu tư và hỗ trợ dự án cấp điện cho các thôn,
bản chưa có điện trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa; Bộ Công Thương đã có công văn
hướng dẫn thực hiện. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Bộ
Công Thương, UBND tỉnh đã giao Sở Công Thương hoàn chỉnh hồ sơ, thủ tục đầu tư
và trình duyệt để triển khai thực hiện.
12.
Cử tri huyện Bá Thước đề nghị đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cung cấp các dịch
vụ viễn thông, phát sóng truyền hình phục vụ nhân dân một số thôn, bản trên địa
bàn huyện Bá Thước.
Trong những năm qua, các doanh
nghiệp viễn thông đã quan tâm đầu tư xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng viễn
thông trên địa bàn tỉnh, đáp ứng yêu cầu phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo,
điều hành của cấp ủy, chính quyền các cấp và nhu cầu thông tin liên lạc của
nhân dân, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng –
an ninh của tỉnh. Tuy nhiên, do địa hình phức tạp, bị chia cắt bởi nhiều sông
suối và núi cao, mật độ dân số thấp, trên địa bàn huyện Bá Thước vẫn còn 10/225
thôn, bản cách xa trung tâm xã, chưa có điện lưới quốc gia nên chưa được đầu tư
xây dựng các trạm cung cấp dịch vụ viễn thông và không thu được
sóng truyền hình, bao gồm các thôn Son, Bá, Mười, Kịt, Pốn, Cao Hong, Thành
Công, xã Lũng Cao; thôn Eo Kén, Pảo Ban, xã Thành Sơn; thôn Thượng Sơn, xã Điền
Thượng.
Để đảm bảo cho người dân thuộc
các thôn, bản nêu trên của huyện Bá Thước được tiếp cận các dịch vụ viễn thông,
thu được sóng truyền hình, Sở Thông tin và Truyền thông đang chỉ đạo các doanh
nghiệp viễn thông tập trung khai thác có hiệu quả các phương tiện, mạng lưới
hiện có nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ viễn thông; tăng cường phối hợp dùng
chung cơ sở hạ tầng giữa các doanh nghiệp viễn thông, đáp ứng nhu cầu thông
tin, liên lạc của nhân dân. Theo báo cáo của Sở Thông tin và Truyền thông, Tập
đoàn Viễn thông Quân Đội Viettel đã hoàn thành đầu tư và sẽ đưa vào khai thác
trạm thu phát sóng di động ở các thôn Son, Bá, Mười, xã Lũng Cao ngay sau khi
có hành lang xây dựng đường truyền dẫn và nguồn điện lưới quốc gia; đang xem
xét, phê duyệt kế hoạch đầu tư các trạm thu phát sóng ở các thôn Eo Kén, Pảo
Ban, xã Thành Sơn; các thôn, bản còn lại sẽ được đầu tư xây dựng các trạm thu
phát sóng di động theo kế hoạch. UBND tỉnh đang chỉ đạo các ngành liên quan,
các địa phương và Công ty Điện lực Thanh Hóa tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng giao thông, lưới quốc gia đến các thôn, bản cách xa trung tâm xã trên địa
bàn huyện Bá Thước để có điều kiện đầu tư xây dựng đường truyền dẫn và trạm thu
phát sóng di động, đáp ứng nhu cầu thông tin, liên lạc của nhân dân.
13.
Cử tri đề nghị đầu tư đường từ xã Thiệu Phú, huyện Thiệu Hóa đến cầu Thành
Giang, xã Định Thành, huyện Yên Định; đầu tư kéo dài dự án cầu Yên Hoành, đoạn
từ Quốc lộ 45 đến Quốc lộ 47; đầu tư đường từ xã Phú Nhuận, huyện Như Thanh đi
huyện Nông Cống; đầu tư sửa chữa đường từ Đình Hương đến xã Thiệu Dương, thành
phố Thanh Hóa và đường Lang Chánh – Yên Khương.
Đầu tư xây dựng, sửa chữa, nâng
cấp các tuyến đường giao thông nêu trên mà cử tri đề nghị là cần thiết nhằm cải
thiện điều kiện giao thông, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm
bảo quốc phòng – an ninh của các địa phương có các tuyến đường đi qua.
Đối với việc đầu tư tuyến đường
từ xã Thiệu Phú, huyện Thiệu Hóa đi cầu Thành Giang, xã Định Thành, huyện Yên
Định; kéo dài dự án cầu Yên Hoành, đoạn từ Quốc lộ 45 đến Quốc lộ 47: Thực hiện
Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu
tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và
do không có khả năng cân đối, bố trí vốn thực hiện dự án, UBND tỉnh đã phải chỉ
đạo tạm dừng thực hiện các dự án này.
Đối với việc đầu tư tuyến đường
từ xã Phú Nhuận, huyện Như Thanh đi huyện Nông Cống: Chủ tịch UBND tỉnh đã phê
duyệt chủ trương đầu tư và đổi tên dự án thành đường ô tô đến trung tâm xã Phú
Nhuận, huyện Như Thanh tại Quyết định số 1633/QĐ-UBND ngày 20/5/2013, tạo điều
kiện cho chủ đầu tư phối hợp với và các ngành, đơn vị liên quan đấu mối với các
Bộ, ngành Trung ương để được hỗ trợ vốn đầu tư theo chương trình đường đến
trung tâm các xã chưa có đường ô tô.
Đối với việc
đầu tư sửa chữa tuyến đường từ Đình Hương đến xã Thiệu Dương, thành phố Thanh
Hóa;đường Lang Chánh – Yên Khương,
đoạn từ Quốc lộ 15A đến xã Yên Thắng: Chủ tịch UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Giao
thông Vận tải thực hiện duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa các vị trí bị hư hỏng trên
các tuyến đường bằng nguồn kinh phí sự nghiệp giao thông của tỉnh; tổ chức cắm
biển hạn chế tải trọng theo quy mô cấp đường thiết kế; phối hợp với UBND huyện
Lang Chánh và lực lượng công an, tăng cường tuần tra, kiểm soát, xử lý nghiêm
xe chở quá tải chạy trên tyến đường; đồng thời phối hợp với các ngành, địa
phương liên quan đấu mối với các Bộ, ngành Trung ương để được đầu tư hoàn thành
tuyến đường Lang Chánh – Yên Khương, đoạn từ xã Yên Thắng đi cửa khẩu Méng.
14. Cử tri
phản ánh trong quá trình thi công tuyến đường vành đai Na Tao đi bản Chai,
huyện Mường Lát đã lấp đập mương, làm 74,9 ha đất sản xuất của 08 bản có tuyến
đường đi qua phải bỏ hoang; tuyến đường từ Nà Ón đi Tà Cóm, xã Trung Lý, huyện
Mường Lát mới hoàn thành thi công đã bị sạt lở nghiêm trọng, gây khó khăn cho
việc đi lại của nhân dân.
Tiếp thu ý kiến cử tri phản ánh, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở
Giao thông Vận tải chủ trì, phối hợp với Ban Dân tộc, UBND huyện Mường Lát và
các nhà thầu đi kiểm tra thi công tuyến đường vành đai Na Tao đi bản Chai và
tuyến đường từ Nà Ón đi Tà Cóm, xã Trung Lý, huyện Mường Lát.
- Theo báo cáo của Sở Giao thông Vận tải (chủ đầu tư), dự
án đường giao thông từ bản Na Tao, xã Pù Nhi đi bản Chai, xã Mường Chanh,
huyện Mường Lát có một số đoạn mở mới đi qua các sườn núi, sườn đồi, độ dốc
cao, điều kiện thi công khó khăn, khối lượng đào đất đá lớn nên vào mùa mưa đã
xảy ra sạt lở đất đá đào nền đường, làm lấp đập tràn và mương thủy lợi, ảnh
hưởng đến sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.
Trước
tình hình trên, Sở Giao thông Vận tải đã chỉ đạo nhà thầu phối hợp với UBND các
xã Quang Chiểu, Mường Chanh xác định thiệt hại và mức kinh phí hỗ trợ cho các
hộ dân bị ảnh hưởng, đảm bảo ổn định đời sống nhân dân; đồng thời phối hợp với
UBND huyện Mường Lát xác định các vị trí đổ đất đào nền đường và gia cố các bãi
đổ để không làm ảnh hưởng đến các công trình thủy lợi phục vụ sản xuất và sinh
hoạt của nhân dân. Đến nay, công việc khắc phục ảnh hưởng do sạt lở đất trong
quá trình thi công của dự án đã hoàn thành. Trong thời gian tới, Sở Giao thông
Vận tải sẽ chỉ đạo nhầu có giải pháp thi công phù hợp hợp, vừa đảm bảo tiến độ
của dự án, vừa đảm bảo an toàn cho các công trình thủy lợi trên địa bàn các xã
Mường Chanh, Quang Chiểu, huyện Mường Lát.
- Tuyến đường từ Nà Ón đi Tà Cóm, xã Trung Lý, huyện
Mường Lát do Bộ Chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh làm chủ đầu tư, được thi công mở
mới hoàn toàn. Do tuyến đường có nhiều đoạn cong, độ dốc lớn, không có rãnh
thoát nước, nên thường xảy ra sạt lở khi có mưa lớn. Hiện nay, Bộ chỉ huy BĐBP
tỉnh Thanh Hóa đang chỉ đạo sửa chữa, khắc phục các đoạn sạt lở trên tuyến, đảm
bảo giao thông cho nhân dân.
15. Cử tri
về đề nghị đẩy nhanh tiến độ thi công tuyến đường từ Yên Nhân đi cửa khẩu Khẹo; tuyến đường Tây Thanh Hóa, đoạn từ Km161-Km190; tuyến đường Quốc lộ 45 kéo dài trên địa bàn các huyện
Như Xuân, Như Thanh.
-
Đường Yên Nhân đi cửa khẩu Khẹo thuộc dự án Tuyến nối các huyện ở Tây Thanh Hóa
có tổng mức đầu tư 189 tỷ đồng; được khởi công xây dựng tháng 10/2010, kế hoạch
hoàn thành đầu tư trong tháng 10/2013; đến nay, giá trị khối lượng thực hiện
đạt 71 tỷ đồng, tương đương 37,5% giá trị khối lượng phải thực hiện.
-
Đoạn tuyến từ Km161-Km190 thuộc dự án Tuyến nối các huyện ở Tây Thanh Hóa, có tổng
giá trị trúng thầu là 200 tỷ đồng; được khởi công xây dựng từ tháng 11/2008, kế
hoạch hoàn thành đầu tư chậm nhất vào tháng 12/2011; tổng số vốn đã bố trí cho
các gói thầu là 101 tỷ đồng; đến nay, giá trị khối lượng thực hiện đạt 147 tỷ
đồng, tương đương 73,5% tổng giá trị khối lượng phải thực hiện.
-
Đường Quốc lộ 45 kéo dài trên địa bàn huyện Như Xuân, Như Thanh thuộc dự án
Tuyến nối các huyện ở Tây Thanh Hóa, có tổng mức đầu tư 546 tỷ đồng, kế hoạch
hoàn thành đầu tư trong năm 2014; tổng số vốn đã bố trí cho dự án là 214 tỷ
đồng; đến nay giá trị khối lượng thực hiện đạt 207 tỷ đồng, tương đương 40%
tổng mức đầu tư.
Như
vậy, tiến độ thi công của các tuyến đường nêu trên chậm so với kế hoạch mà
nguyên nhân chủ yếu là do việc bố trí vốn cho dự án không kịp thời và tiến độ giải
phóng mặt bằng chưa đáp ứng được yêu cầu của dự án. Trước tình hình đó, UBND
tỉnh đã có nhiều văn bản đề nghị Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành Trung
ương bố trí vốn đẩy nhanh tiến độ dự án, sớm hoàn thành đầu tư đưa vào khai
thác, sử dụng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh
trên địa bàn; đồng thời chỉ đạo Sở Giao thông Vận tải phối hợp với các ngành
liên quan tích cực đấu mối với các Bộ, ngành Trung ương để được bổ sung vốn đẩy
nhanh tiến độ dự án; chỉ đạo UBND các địa phương tập trung giải quyết khó khăn,
vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ bồi thường, giải phóng mặt bằng, tạo điều kiện
thuận lợi cho chủ đầu tư và các nhà thầu đẩy nhanh tiến độ thi công công trình.
16. Cử tri đề nghị tăng cường
kiểm tra, kiểm soát, xử lý nghiêm xe ô tô quá khổ, quá tải lưu hành trên tuyến
Quốc lộ 45.
Trong thời gian qua, tình trạng xe ô tô tham gia giao thông chở hàng quá
tải trọng và chở quá số khách cho phép trên địa bàn cả nước nói chung và tỉnh
ta nói riêng diễn biến phức tạp, nguy cơ tiềm ẩn mất an toàn giao thông, làm
gia tăng tai nạn giao thông và hư hỏng các công trình giao thông đường bộ, gây
bức xúc cho trong nhân dân.
Để chấn chỉnh tình trạng nêu trên và thực hiện tốt Công
điện số 95/CĐ-TTg ngày 10/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ, Công văn số
2253/BGTVT-ATGT ngày 30/3/2013 của Bộ Giao thông Vận tải, UBND tỉnh đã ban hành
nhiều văn bản chỉ đạo các ngành, địa phương, đơn vị, tăng cường tuần tra, kiểm
soát, phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp xe ô tô chở quá tải trọng cho
phép, chở khách quá số người quy định khi tham gia giao thông trên địa bàn
tỉnh; đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục pháp luật nhằm nâng
cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật giao thông trong nhân dân; quản lý
chặt chẽ hoạt động vận tải hành khách, hàng hóa trên địa bàn; thường xuyên nhắc
nhở, chấn chỉnh các doanh nghiệp, cá nhân đăng doanh hoạt động vận tải chấp
hành các quy định của pháp luật về an toàn giao thông đường bộ; đến nay, tình
trạng xe ô tô chở hàng quá khổ, quá tải, chở khách quá số người quy định trên
địa bàn tỉnh từng bước đã được khắc phục.
17.
Cử tri đề nghị kiểm tra, xác định mức độ ô nhiễm do chất thải của một số nhà
máy trên thượng nguồn sông Yên:
Sông Yên bắt nguồn từ xã Bình
Lương, huyện Như Xuân chảy qua địa bàn các huyện Như Thanh, Nông Cống, Quảng
Xương và đổ ra biển Đông qua cửa Lạch Ghép. Sông Yên có 4 chi lưu chính là sông
Nhơm, sông Hoàng, sông Lý và sông Thị Long; là nơi tiếp nhận nước thải sinh
hoạt của các khu vực dân cư sinh sống hai bên bờ sông và nước thải sản xuất của
Nhà máy đường Nông Cống, Nhà máy giấy Lam Sơn, cụm công nghiệp Dân Lực, làng
nghề Đồng Thắng, huyện Triệu Sơn và các cơ sở khai thác khoáng sản. Kết quả
quan trắc, phân tích cho thấy chất lượng nước trên hệ thống sông Yên đã bị ô
nhiễm, một số chỉ tiêu như PH, DO, BOD5, COD, PO43-,
NO2-, Cl, TSS, dầu mỡ,...vượt quá quy chuẩn cho phép, ảnh
hưởng đến sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Nguyên nhân chủ yếu là do nước
thải sinh hoạt của các khu dân cư, nước thải sản xuất của các cơ sở công nghiệp
nêu trên thải ra sông Nhơm, sông Hoàng, sông Lý và sông Thị Long chưa được thu
gom, xử lý triệt để.
Trước tình hình trên, UBND tỉnh
đã chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường phối hợp với các ngành, địa phương liên
quan tổ chức thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật bảo vệ môi trường của
các cơ sở sản xuất dọc hệ thống sông Yên; yêu cầu các cơ sở sản xuất đầu tư xây
dựng hoàn chỉnh và thường xuyên vận hành hệ thống thu gom, xử lý nước thải sản
xuất, đảm bảo nước thải, chất thải rắn, khí thải sản xuất thải ra môi trường
đạt quy chuẩn cho phép; lập dự án đầu tư cải tạo phục hồi môi trường; gia cố bờ
đê bãi thải, xây dựng kho chứa chất thải nguy hại; đồng thời chỉ đạo các địa
phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật bảo vệ môi trường
nhằm nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc bảo
vệ môi trường; quan tâm đầu tư hệ thống thu gom, xử lý nước thải, chất thải sản
xuất của các cụm công nghiệp, làng nghề; tăng cường thanh tra, kiểm tra, phát
hiện, xử lý hoặc đề xuất cơ quan có thẩm quyền xử lý nghiêm các cơ sở sản xuất gây
ô nhiễm môi trường.
18.
Cử tri đề nghị thu hồi đất của các dự án chậm triển khai thực hiện trên địa bàn
huyện Quảng Xương và thị xã Sầm Sơn.
Tiếp thu ý kiến kiến nghị của cử
tri, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường rà soát, kiểm tra việc sử
dụng đất của các dự án trên địa bàn huyện Quảng Xương và thị xã Sầm Sơn. Kết
quả kiểm tra cho thấy trên địa bàn huyện Quảng Xương và thị xã Sầm Sơn có 10 dự
án đã được nhà nước giao đất, cho thuê đất để đầu tư kinh doanh khách sạn, dịch
vụ du lịch, thương mại, sửa chữa ô tô, gia công cơ khí, sản xuất cấu kiện bê
tông,…nhưng chưa đưa đất vào sử dụng hoặc vi phạm pháp luật đất đai.
Để tránh lãng phí
tài nguyên đất đai, khắc phục tình trạng sử dụng đất kém hiệu quả, đồng thời
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vượt qua thời kỳ khó khăn do ảnh hưởng của
suy giảm kinh tế, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường phối hợp với
các ngành, địa phương liên quan, xác định rõ nguyên nhân chậm trễ đưa đất vào
sử dụng của từng dự án cụ thể, trên cơ sở đó đề xuất UBND tỉnh xem xét, thu hồi
đất của các dự án không có khả năng triển khai thực hiện, sử dụng đất không
đúng mục đích hoặc vi phạm pháp luật đất đai.
19.
Cử tri thành phố Thanh Hóa đề nghị tăng cường công tác quản lý hoạt động khai
thác, tập kết kinh doanh cát trên sông Mã, đoạn qua thành phố Thanh Hóa để bảo vệ
an toàn đê điều.
Hiện nay, trên địa bàn thành phố
Thanh Hóa có 02 mỏ cát, 15 bãi tập kết kinh doanh cát đã được cấp phép hoạt
động và 01 bãi đã được chấp thuận chủ trương lập hồ sơ thuê đất. Tuy nhiên, hoạt
động tập kết kinh doanh cát trái phép trên địa bàn thành phố Thanh Hóa vẫn diễn
ra khá phổ biến, tập trung chủ yếu ở khu vực phường Tào Xuyên và xã Hoằng Lý.
Trước tình hình trên, UBND tỉnh
đã chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường phối hợp với UBND thành phố Thanh Hóa tăng cường thanh tra,
kiểm tra, xử lý nghiêm hoạt động khai thác, tập kết kinh doanh cát trái phép;
yêu cầu UBND phường Tào Xuyên, UBND xã Hoằng Lý giải tỏa ngay các bãi tập kết kinh
doanh cát trái phép trên địa bàn; tăng cường kiểm tra, phát hiện, xử lý nghiêm
các đối tượng khai thác, tập kết kinh doanh cát trái phép theo thẩm quyền; đồng
thời kiểm điểm làm rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân liên quan. Đến nay, hoạt
động khai thác, tập kết kinh doanh cát trái phép trên địa bàn thành phố Thanh
Hóa đã được khắc phục.
20. Cử tri thị xã Sầm Sơn đề nghị cần có giải
pháp ứng phó với hiện tượng nước biển xâm thực khu du lịch sinh thái Quảng Cư,
thị xã Sầm Sơn.
Thực hiện Quyết định số 158/2008/QĐ-TTg
ngày 02/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc
gia ứng phó với biến đổi khí hậu, UBND tỉnh đã ban hành kế hoạch hành động, đề
ra các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể để triển khai thực hiện; đồng thời có văn bản
đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường, báo cáo Thủ tướng Chính phủ bố trí vốn hỗ
trợ cho các dự án: Trồng rừng ngập mặn ven biển các xã Nga Tân, Nga Thủy, huyện
Nga Sơn; xã Hải Lộc, Đa Lộc, huyện Hậu Lộc; xã Hoằng Châu, huyện Hoằng Hóa; xã
Quảng Cư, thị xã Sầm Sơn; hệ thống thủy lợi sông Lèn và dự án đầu tư xây dựng đê
biển tại xã Quảng Cư, thị xã Sầm Sơn.
Trong 3 dự án nêu trên, dự án đầu tư xây
dựng đê biển tại xã Quảng Cư, thị xã Sầm Sơn nhằm chống sạt lở, ngăn chặn biển
xâm thực đất liền đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh mục dự án ưu tiên hỗ
trợ đầu tư theo Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu.
Hiện nay, UBND tỉnh đang chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường phối hợp với Sở Kế
hoạch và Đầu tư tích cực đấu mối với các Bộ, ngành Trung ương để sớm được bố
trí vốn triển khai thực hiện dự án.
21. Cử tri thành phố Thanh Hóa đề
nghị tăng tăng cường các biện pháp quản lý di tích Núi Nhồi, phường An Hoạch,
thành phố Thanh Hóa.
Di tích Núi Nhồi
thuộc địa phận phường An Hoạch, thành phố Thanh Hóa đã được Bộ Văn hóa – Thông
tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích cấp Quốc gia tại
Quyết định số 983/VH-QĐ ngày 08/4/1992. Di tích bao gồm Núi An Hoạch (Núi
Nhồi), chùa Tiên Sơn (chùa Quan Thánh), chùa Hinh Sơn (chùa Thánh Mẫu), Đình
Thượng và lăng Quận Mãn. Hiện nay, khu vực bảo vệ và khu vực liền kề di tích
Núi Nhồi đã bị xâm hại nghiêm trọng, nhân dân đã xây nhà ở, dựng xưởng chế tác
đá bên cạnh chùa Tiên Sơn, chùa Hinh Sơn và ngay dưới chân Núi Nhồi; do hoạt
động khai thác đá diễn ra trong nhiều năm nên trên thân Núi Nhồi có những vết
sẹo lớn và dưới chân núi đã hình thành những hố sâu, bãi tập kết vật liệu, làm
phá vỡ cảnh quan, gây ô nhiễm môi trường.
Để
quản lý, bảo vệ và có cơ sở trùng tu, tôn tạo di tích Núi Nhồi, UBND tỉnh đã
ban hành Quyết định số 893/VX-UBND ngày 25/6/1992 về việc phê duyệt quy hoạch,
quản lý, bảo vệ cụm di tích lịch sử Núi Nhồi; dừng cấp phép khai thác đá, xây
dựng kế hoạch di dời các xưởng đá ra khỏi khu vực bảo vệ và khu vực liền kề di
tích, từng bước trả lại cảnh quan môi trường, các giá trị lịch sử văn hóa và
kiến trúc nghệ thuật vốn có của di tích; chỉ đạo thành lập Ban Quản lý di tích
lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh Núi Nhồi để bảo vệ di tích. Giao UBND
thành phố Thanh Hóa phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch khảo sát hiện
trạng, nghiên cứu đề xuất lập dự án quy hoạch tổng thể di tích Núi Nhồi, báo
cáo Chủ tịch UBND tỉnh.
22.
Cử tri đề nghị bố trí kinh phí chi trả cho giáo viên dạy 02 buổi/ngày tại các trường
tiểu học đã tổ chức học 02buổi/ngày nhưng chưa được bố trí đủ giáo viên theo
quy định.
Theo quy định, các trường tiểu
học chỉ được tổ chức dạy học 2 buổi/ ngày khi đảm bảo các điều kiện như: học
sinh có nhu cầu, có sự tự nguyện của cha mẹ học sinh và được cấp quản lý có
thẩm quyền cho phép; đảm bảo yêu cầu mỗi lớp học 02 buổi/ngày phải có ít nhất
01 phòng học riêng; có đủ các phòng chức năng và trang thiết bị theo quy định
trường đạt chuẩn quốc gia; đảm bảo điều kiện về vệ sinh, môi trường; được bố
trí đủ số lượng giáo viên 1,5 giáo viên/lớp, đảm bảo cơ cấu theo yêu cầu của
chương trình dạy học 02 buổi/ngày.
Như vậy, đối với các trường tiểu
học chưa đủ các điều kiện về cơ sở vật chất, vệ sinh, môi trường và các điều
kiện khác thì không được tổ chức dạy học 02 buổi/ngày mà chỉ được tổ chức dạy
tăng tiết, tăng buổi nhưng không quá 02 buổi/tuần, với các nội dung “bồi dưỡng
về nghệ thuật, thể dục thể thao, rèn luyện kỹ năng sống”; chế độ đối với giáo
viên dạy tăng tiết, tăng buổi được ngân sách nhà nước đảm bảo theo hướng dẫn
của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Tài chính tại Thông tư Liên tịch số
07/2013/TTLT-BGDĐT-BTC ngày 08/3/2013.
23.
Về đề nghị nâng mức phụ cấp cho những người hoạt động không chuyên trách ở cấp
xã và thôn, bản, phố.
Hiện nay, toàn tỉnh có 10.809
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã và 17.553 người hoạt động không
chuyên trách ở thôn, bản, phố. Chế độ phụ cấp cho những người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở thôn, bản, phố đang
được thực hiện theo Quyết định số 619/2010/UBND ngày 11/02/2010 của UBND tỉnh.
Theo đó, có 17 chức danh hoạt động không chuyên trách ở cấp xã và 03 chức danh
hoạt động không chuyên trách ở thôn, bản, phố được hưởng mức phụ cấp từ 0,6 đến
1,0 so với mức lương tối thiểu chung nhà nước quy định, hoàn toàn phù hợp với
quy định tại Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ.
Như vậy, mức phụ cấp cao nhất đối
với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã và thôn, bản, phố hiện
nay ở tỉnh ta là 1.050.000 đồng, tăng 350% so với mức phụ cấp cao nhất quy định
tại Quyết định số 367/2007/QĐ-UBND ngày 30/01/2007 của UBND tỉnh, hoàn toàn phù
hợp với mặt bằng chung của cả nước và tình hình thực tế ở cơ sở. Mặt khác, hiện
nay ngân sách tỉnh còn khó khăn, thu ngân sách trên địa bàn mới đáp ứng được 30%
nhu cầu chi ngân sách địa phương; vì vậy, nếu tăng thêm bình quân hệ số phụ cấp
0,1 cho mỗi chức danh hoạt động không chuyên trách thì ngân sách tỉnh phải chi
tăng lên gần 36 tỷ đồng/năm, rất khó khăn trong việc cân đối thu – chi ngân
sách tỉnh hàng năm. Khi ngân sách tỉnh có điều kiện, UBND tỉnh sẽ báo cáo HĐND
tỉnh xem xét, quyết định nâng mức phụ cấp cho những người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã và thôn, bản, phố trên địa bàn tỉnh.
24.
Cử tri đề nghị điều chỉnh địa giới hành chính giữa xã Lương Nội, huyện Bá Thước
và xã Cẩm Quý, huyện Cẩm Thủy; xã Văn Nho, huyện Bá Thước và xã Tam Văn, huyện
Lang Chánh; xã Yên Khương, huyện Lang Chánh và xã Sơn Hà, huyện Quan Sơn trên
bản đồ địa giới hành chính 364-CT cho đúng với hiện trạng.
Trong những năm qua, UBND tỉnh đã
chỉ đạo các ngành, địa phương tập trung giải quyết dứt điểm các vụ tranh chấp
địa giới hành chính theo nguyên tắc tranh chấp địa giới giữa các xã, phường,
thị trấn trong cùng một huyện, thị xã, thành phố do UBND huyện, thị xã, thành
phố có tranh chấp địa giới hành chính giải quyết; tranh chấp địa giới hành
chính giữa các các xã, phường, thị trấn thuộc 2 huyện, thị xã, thành phố khác
nhau thì Sở Nội vụ có trách nhiệm giải quyết, báo cáo UBND tỉnh những trường
hợp đề xuất điều chỉnh địa giới hành chính để báo cáo cơ quan có thẩm quyền xem
xét, giải quyết. Tuy nhiên hiện nay, trên địa bàn tỉnh vẫn còn 28 điểm tranh
chấp địa giới hành chính (giữa các huyện có 16 điểm; giữa các xã có 12 điểm)
chưa được giải quyết dứt điểm, trong đó có các điểm tranh chấp địa giới hành
chính giữa xã Lương Nội, huyện Bá Thước và xã Cẩm Quý, huyện Cẩm Thủy; xã Văn
Nho, huyện Bá Thước và xã Tam Văn, huyện Lang Chánh; xã Yên Khương, huyện Lang
Chánh và xã Sơn Hà, huyện Quan Sơn.
Để giải quyết tranh chấp địa giới
hành chính giữa các địa phương và khắc phục những sai sót trong quá trình lập
hồ sơ, bản đồ địa giới hành chính 364-CT, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 513/QĐ-TTg ngày 02/5/2012 phê duyệt Dự án hoàn thiện, hiện đại hóa hồ
sơ, bản đồ địa giới hành chính và xây dựng cơ sở dữ liệu về địa giới hành
chính. Thực hiện quyết định của Thủ tướng Chính phủ, UBND tỉnh đã thành lập Ban
Chỉ đạo tỉnh, xây dựng kế hoạch, quy chế hoạt động, phân công nhiệm vụ cụ thể
cho các thành viên Ban Chỉ đạo triển khai thực hiện; Sở Nội vụ đã hướng dẫn các
huyện, thị xã, thành phố kiểm tra, rà soát, thống kê hồ sơ, bản đồ địa giới
hành chính và mốc địa giới hành chính các cấp; giải quyết tranh chấp đất đai
liên quan đến địa giới hành chính cấp huyện, cấp xã.
Tuy nhiên, việc triển khai thực
hiện dự án hoàn thiện, hiện đại hóa hồ sơ, bản đồ địa giới hành chính và xây
dựng cơ sở dữ liệu về địa giới hành chính ở địa phương đang gặp khó khăn do
chưa có văn bản hướng dẫn của các Bộ, ngành Trung ương về việc lập dự toán dự
án. Sau khi có văn bản hướng dẫn của các bộ, ngành Trung ương về việc lập dự
toán dự án nêu trên, UBND tỉnh sẽ chỉ đạo các ngành liên quan và các địa phương
khẩn trương triển khai thực hiện, đảm bảo tiến độ đã được phê duyệt trong dự
án.
25.
Cử tri đề nghị cần có chế độ phụ cấp cho cán bộ lãnh đạo chuyên trách các hội
đặc thù.
Hiện nay, toàn tỉnh có 14 hội đã
được Chủ tịch UBND tỉnh quyết định công nhận hội có tính chất đặc thù, là: Hội
Khuyến học, Hội Cựu thanh niên xung phong, Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin,
Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ em mồ côi, Hội Chữ thập đỏ, Hội Làm vườn và
Trang trại, Hội Người cao tuổi, Hội Đông y, Hội Luật gia, Liên Hiệp các hội khoa
học và kỹ thuật, Hội Văn học và Nghệ thuật, Liên minh các hợp tác xã, Hội Nhà
báo, Hội Người mù. Số lượng, chế độ thù lao đối với những người đã nghỉ hưu giữ
chức danh lãnh đạo chuyên trách ở các cấp hội có tính chất đặc thù được quy
định tại Quyết định số 2553/2012/QĐ-UBND ngày 13/8/2012 của UBND tỉnh. Riêng
chế độ trợ cấp đối với cán bộ của Hội Người mù cấp tỉnh, cấp huyện được quy
định tại Quyết định số 2003/QĐ-UBND ngày 23/6/2011 của Chủ tịch UBND tỉnh.
Nhìn chung, việc thực hiện chế độ
thù lao đối với người đã nghỉ hưu giữ chức danh lãnh đạo chuyên trách ở các hội
có tính chất đặc thù trên địa bàn tỉnh được thực hiện kịp thời, phù hợp với
điều kiện của địa phương, đã góp phần động viên cán bộ hội yên tâm công tác.
Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn một số lãnh đạo hội chuyên trách cấp huyện, cấp xã,
không phải đối tượng nghỉ hưu, không được hưởng chế độ thù lao theo quy định.
Để bảo đảm chế độ thù lao cho các chức danh lãnh đạo chuyên trách các hội có
tính chất đặc thù, Sở Nội vụ đã có văn bản báo cáo, xin ý kiến Bộ Nội vụ và Bộ
đã có Công văn số 2972/BNV-TL ngày 20/8/2012 trả lời “Đối tượng lãnh đạo hội
chuyên trách không phải là người nghỉ hưu thì thực hiện theo thỏa thuận giữa các
hội với người làm công tác hội, bảo đảm tương quan trong nội bộ hội và theo quy
định của Bộ Luật lao động và quy định của pháp luật hiện hành”. Trên cơ sở ý
kiến của Bộ Nội vụ, UBND tỉnh đang chỉ đạo Sở Nội vụ phối hợp với các ngành liên
quan, tham mưu đề xuất hướng giải quyết, báo cáo UBND tỉnh.
26. Cử tri đề nghị
chi trả tiền thưởng cho các đối tượng đã được Chủ tịch UBND tỉnh tặng Bằng khen
về thành tích tham gia kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước.
Thực hiện Quyết định số 98/2006/QĐ-TTg ngày
05/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc tặng Bằng khen của Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương cho các đối tượng có thành tích tham gia kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ, Chủ tịch UBND tỉnh đã ban hành 146 quyết định khen
thưởng cho 107.105 đối tượng nhưng chưa có kinh phí chi trả tiền thưởng theo
quy định tại Nghị định số 42/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 của Chính phủ.
Ngày 19/01/2012, Bộ Tài chính có Công văn số
996/BTC-NSNN đề nghị các bộ, ngành Trung ương và các địa phương tổng hợp kinh
phí thực hiện chế độ khen thưởng cho các đối tượng có thành tích tham gia kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ, UBND tỉnh đã có Công văn số 5238/UBND-KTTC ngày
26/7/2012 báo cáo Bộ Tài chính đề nghị Thủ tướng Chính phủ hỗ trợ kinh phí cho
tỉnh thực hiện chế độ khen thưởng, với tổng số tiền 112.460.250.000 đồng. Tuy
nhiên, đến nay Trung ương vẫn chưa bố trí được nguồn kinh phí để hỗ trợ cho các
địa phương. UBND tỉnh sẽ thực hiện chế độ khen thưởng thành tích kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ cho các đối tượng đã nhận Bằng khen ngay sau khi được
Trung ương hỗ trợ kinh phí.
27. Cử tri huyện Hoằng Hóa đề nghị tăng cường hoạt động
của cảnh sát môi trường; tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động của các văn
phòng công chứng trên địa bàn tỉnh.
.- Trong những năm qua, tình hình vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường ở
tỉnh ta diễn biến biến phức tạp, chủ yếu ở các lĩnh vực khai thác, kinh doanh
khoáng sản, vật liệu xây dựng,…và trong quá trình xây dựng, vận hành các công
trình xử lý ô nhiễm môi trường, xử lý chất thải rắn, chất thải nguy hại,…
Trước tình hình trên, Công an tỉnh đã xây dựng kế hoạch, chỉ đạo lực
lượng cảnh sát môi trường phối hợp với các ngành chức năng và các địa phương
tăng cường các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn các hành vi vi phạm
pháp luật bảo vệ môi trường, trọng tâm là đấu tranh ngăn chặn các hoạt động
khai thác, vận chuyển trái phép khoáng sản, xả chất thải chưa qua xử lý ra môi
trường. Trong 4 tháng đầu năm 2013, qua đấu tranh đã phát hiện 26 vụ vi pháp
luật về bảo vệ môi trường, hoàn chỉnh hồ sơ ra quyết định xử lý vi phạm hành
chính 18 vụ, phạt tiền trên 280 triệu đồng.
- Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 28 tổ chức hành
nghề công chứng, phân bổ trên địa bàn 17 huyện, thị xã, thành phố. Hoạt động
của các văn phòng công chứng đã cơ bản đáp ứng nhu cầu giao dịch dân sự, kinh
tế, thương mại của tổ chức, công dân trên địa bàn; phòng ngừa tranh chấp, vi
phạm pháp luật; bảo đảm cho sự phát triển lành mạnh của thị trường bất động sản
trong tỉnh; đồng thời góp phần giải quyết việc làm, tăng nguồn thu cho ngân
sách nhà nước.
Trong quá trình hoạt động, nhìn chung các tổ chức
hành nghề công chứng đã chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật về công
chứng, chế độ thông tin, báo cáo và nghĩa vụ nộp thuế đối với nhà nước. Tuy
nhiên, hoạt động hành nghề công chứng của một số tổ chức công chứng có lúc, có
việc chưa tuân thủ đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định, có biểu hiện chạy
đua theo lợi nhuận; chưa quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho công chứng viên.
Để khắc phục những tồn tại, hạn chế nêu trên, đưa
hoạt động công chứng đi vào nề nếp, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Tư pháp đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về công chứng đến các tầng lớp nhân
dân; tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho các công chứng viên
đang hành nghề; tăng cường thanh tra, kiểm tra, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh,
xử lý sai phạm của các tổ chức hành nghề công chứng; đồng thời yêu cầu các tổ
chức hành nghề công chứng thực hiện niêm yết công khai thủ tục và mức phí công
chứng theo quy định; mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên;
thực hiện nghiêm chế độ thông tin, báo cáo thống kê theo quy định của pháp
luật.
Trên
đây là kết quả thực hiện ý kiến, kiến nghị của cử tri gửi đến Kỳ họp thứ 5 HĐND
tỉnh Khoá XVI./.