Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá XV, sáng ngày 24/10/2025 tại Nhà Quốc hội, dưới dự chủ tọa của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Quốc hội thảo luận ở hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (sửa đổi). Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương điều hành nội dung phiên họp.
Tại phiên thảo luận, Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa có ý kiến phát biểu của đại biểu Lê Thanh Hoàn, Ủy viên chuyên trách Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội. Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh Thanh Hóa xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của đại biểu Lê Thanh Hoàn.

ĐBQH Lê Thanh Hoàn phát biểu tại phiên thảo luận (ảnh)
Kính thưa chủ tọa phiên họp.
Kính thưa Quốc hội, về cơ bản thì tôi tán thành và đánh giá cao dự thảo Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân do Ủy ban Thường vụ Quốc hội trình với Quốc hội. Dự thảo luật đã xây dựng theo đúng tinh thần đổi mới về công tác lập pháp; quy định chặt chẽ, đúng thẩm quyền của Quốc hội. Bên cạnh đó, để hoàn thiện dự thảo luật, tôi đề nghị xem xét một số nội dung cụ thể như sau:
Thứ nhất, về quyền yêu cầu cung cấp thông tin của đại biểu Quốc hội: Tại Điều 35 Luật Tổ chức Quốc hội đã quy định về quyền yêu cầu cung cấp thông tin của đại biểu Quốc hội và đã được cụ thể tại Điều 55 Luật Hoạt động giám sát hiện hành. Với quy định cụ thể người đứng đầu cơ quan khi nhận được yêu cầu của đại biểu Quốc hội, chậm nhất 5 ngày phải đáp ứng yêu cầu của đại biểu Quốc hội. Tuy nhiên, ngay tại Điều 55 của Luật Hoạt động giám sát hiện hành thực tế này vẫn còn hạn chế quyền yêu cầu cung cấp thông tin của đại biểu Quốc hội là chỉ khi tiến hành hoạt động giám sát. Trong khi giám sát cần phải lập chương trình, kế hoạch cụ thể, trên thực tế rất khó để đại biểu Quốc hội có thể thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo Luật Tổ chức Quốc hội.
Trong sửa đổi lần này đúng ra cần phải quy định rõ về thời gian, trách nhiệm và rõ những nội dung mà đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu cung cấp thông tin để phục vụ hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội. Tuy nhiên, dự thảo luật đã lược bỏ các quy định cụ thể, nhiều quyền cụ thể của đại biểu Quốc hội và chuyển về quy định chung với các chủ thể giám sát khác cũng như thời hạn chậm nhất là 5 ngày khi nhận được yêu cầu của đại biểu Quốc hội thì người đứng đầu cơ quan phải đáp ứng yêu cầu của đại biểu Quốc hội đã không còn quy định trong dự thảo luật.
Với tinh thần đổi mới tư duy lập pháp, tôi tán thành việc chúng ta hạn chế việc luật quy định quá chi tiết. Tuy nhiên, nếu là những nội dung đã được hiến định cần vẫn được phải xem xét quy định cụ thể. Ở đây chính là yêu cầu tại khoản 3 Điều 80 Hiến pháp năm 2013, đó là đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân và người đứng đầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm trả lời những vấn đề đại biểu Quốc hội yêu cầu trong thời hạn luật định. Do đó, đề nghị cân nhắc luật định về thời hạn cụ thể để người đứng đầu cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có trách nhiệm phải trả lời những vấn đề đại biểu Quốc hội yêu cầu.
Thứ hai, về trách nhiệm tiếp công dân, tiếp nhận và xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân: Điều 28 Luật Tổ chức Quốc hội quy định trách nhiệm tiếp công dân, tiếp nhận, xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân. Đây là vấn đề trách nhiệm của đại biểu khi nhận được khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân và sẽ có trách nhiệm nghiên cứu, kịp thời chuyển đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền để giải quyết và thông báo cho người khiếu nại, tố cáo, đồng thời đôn đốc và giám sát việc giải quyết. Người có thẩm quyền phải thông báo cho đại biểu Quốc hội về kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân trong thời hạn theo quy định của pháp luật.
Điều 54 Luật Hoạt động giám sát hiện nay cũng không quy định rõ thời hạn các cơ quan có thẩm quyền phải trả lời đại biểu Quốc hội mà chỉ quy định trong thời hạn quy định của pháp luật. Trong khi chuyển đơn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban là 7 ngày kể từ ngày ra quyết định giải quyết. Kể cả với quy định 7 ngày kể từ ngày ra quyết định giải quyết cũng rất khó để cơ quan Quốc hội thực hiện thẩm quyền này, bởi lẽ nếu các cơ quan đã giải quyết khiếu nại, tố cáo, liệu các cơ quan đó có cần xem xét lại đơn do cơ quan Quốc hội chuyển đến hay chỉ trả lời là đã giải quyết. Do đó, đề nghị tiếp tục quy định về trách nhiệm của Đại biểu Quốc hội trong việc tiếp công dân, tiếp nhận và xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân và cần quy định thời hạn cụ thể để người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo có văn bản trả lời đại biểu Quốc hội. Trong một số trường hợp khác, liên quan đến quy trình, thủ tục tố tụng tư pháp, các cơ quan tư pháp khi nào cần trả lời hay chỉ cần trả lời chung là đang xem xét giải quyết theo thủ tục tố tụng, ta cũng nên có quy định cụ thể về vấn đề này.
Thứ ba, về quyền yêu cầu của đại biểu Quốc hội khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật: Tại Điều 34 Luật Tổ chức Quốc hội có quy định về quyền yêu cầu của đại biểu Quốc hội khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại đối với lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan thi hành biện pháp cần thiết để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của đại biểu Quốc hội, cơ quan, tổ chức phải giải quyết và thông báo bằng văn bản cho đại biểu Quốc hội biết, quá thời hạn này mà không trả lời, đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên xem xét, giải quyết. Trong Luật Hoạt động giám sát hiện nay chưa quy định cụ thể hóa quyền này của đại biểu Quốc hội, do đó chỉ với quy định của Luật Tổ chức Quốc hội, đại biểu Quốc hội khó có thể thực hiện thẩm quyền này vì chưa có thời hạn để cơ quan cấp trên xem xét và trả lời. Trong trường hợp đó, không trả lời hoặc trả lời không thỏa đáng thì xử lý thế nào? Do đó rất mong cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục nghiên cứu để quy định cụ thể quy trình, thủ tục trong dự thảo luật về quyền yêu cầu của đại biểu Quốc hội khi phát hiện hành vi vi phạm để có thể thực hiện được trên thực tế.
Thứ tư, về thẩm quyền giám sát của Quốc hội đối với bản án, quyết định tư pháp của Tòa án: Đề nghị cần làm rõ về thẩm quyền giám sát của các cơ quan Quốc hội, đại biểu Quốc hội và thẩm quyền của Tòa án, nhất là Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có thực hiện giám sát với bản án, quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hay không, nếu có thì kết luận có giá trị như thế nào? Cần có quy định hài hòa, cụ thể để đảm bảo đảm việc thực hiện kết luận giám sát, có thể quy định rõ hơn về cơ chế giải trình của Hội đồng thẩm phán trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng như cơ chế lấy phiếu tín nhiệm đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Bởi lẽ, theo các đạo luật tố tụng tại Điều 404 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 358 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 287 của Luật Tố tụng hành chính, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có quyền yêu cầu, Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội có quyền kiến nghị Hội đồng thẩm phán xem xét lại bản án, quyết định của Hội đồng thẩm phán. Tuy nhiên, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao vẫn có quyền giữ nguyên bản án, quyết định của mình.
Tôi xin hết. Xin trân trọng cảm ơn Quốc hội.