Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá XV, sáng ngày 18/11/2025 tại Nhà Quốc hội, dưới dự chủ tọa của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Quốc hội thảo luận ở hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng. Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định điều hành nội dung phiên họp.
Tại phiên thảo luận, Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa có ý kiến phát biểu của đại biểu Mai Văn Hải, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh. Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh Thanh Hóa xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của đại biểu Mai Văn Hải.

ĐBQH Mai Văn Hải phát biểu tại Hội trường
Kính thưa Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Quốc hội Chủ trì phiên họp,
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Trước hết, tôi cũng cơ bản thống nhất với Tờ trình của Chính phủ, Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Pháp luật và Tư pháp, để tiếp tục hoàn thiện dự thảo luật, tôi xin có một số ý kiến như sau: Một, về cơ quan kiểm soát tài sản thu nhập ở quy định Điều 30. Phát biểu trước tôi thì đại biểu Hòa đã có đề cập vấn đề này. Đại biểu Hòa có thống nhất với giải trình cũng như dự thảo để luật này quy định cơ quan Ủy ban kiểm tra thực hiện kiểm soát tài sản, thu nhập trong luật này nhưng tôi vẫn thấy băn khoăn ở điểm này. Vì cơ quan Ủy ban kiểm tra các cấp trên cơ sở thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng theo quy định của Điều lệ Đảng và các quy định của Đảng. Ở đây, chức năng kiểm soát tài sản, thu nhập của Ủy ban kiểm tra các cấp lâu nay cũng đã thực hiện và thực hiện rất tốt. Chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban kiểm tra các cấp trên cơ sở trong vấn đề kiểm soát tài sản, thu nhập đã được quy định rất cụ thể và rõ ràng tại Quy định 296 của Ban Chấp hành Trung ương. Theo tôi, trong luật này không nên quy định cơ quan kiểm soát tài sản đối với Ủy ban kiểm tra các cấp trên cơ sở ở dự thảo luật này.
Ý thứ hai, trên thực tiễn quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 yêu cầu người có nghĩa vụ kê khai phải kê khai tài sản, thu nhập của cả vợ hoặc chồng. Điều này sẽ phát sinh vướng mắc trong trường hợp vợ và chồng thuộc thẩm quyền kiểm soát của hai cơ quan khác nhau là Ủy ban kiểm tra và thanh tra tỉnh. Nếu cả hai cơ quan cùng tiến hành xác minh có thể dẫn đến việc xác minh trùng lắp đối với cùng một tài sản chung của vợ, chồng thực hiện kê khai. Để giải quyết vấn đề chồng chéo này, đề nghị bổ sung vào dự thảo luật một nguyên tắc phối hợp cụ thể: Trường hợp người có nghĩa vụ kê khai thuộc thẩm quyền kiểm soát tài sản của thanh tra tỉnh mà có vợ hoặc chồng là đối tượng được Ủy ban kiểm tra cấp có thẩm quyền ra quyết định xác minh tài sản, thu nhập thì thanh tra tỉnh không nên tiến hành xác minh lại tài sản, thu nhập đối với người đó trong cùng thời kỳ. Ngược lại, nếu thanh tra đã xác minh tài sản, thu nhập thì Ủy ban kiểm tra cũng không nên xác minh lại đối với cùng một đối tượng cùng thời kỳ.
Tại khoản 3 quy định "Ủy ban Công tác đại biểu kiểm soát tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai thuộc thẩm quyền quản lý của mình". Theo tôi, cần làm rõ phạm vi quản lý đối tượng phải kê khai của Ủy ban Công tác đại biểu để tránh trùng lắp với các cơ quan có chức năng kiểm soát tài sản, thu nhập ở trung ương, ở địa phương và của Văn phòng Quốc hội. Tôi đề nghị đối với đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách ở địa phương nên giao trách nhiệm chính cho các cơ quan chức năng của địa phương quản lý, kiểm soát việc kê khai tài sản, thu nhập. Ủy ban Công tác đại biểu của Quốc hội thực hiện việc kiểm soát tài sản, thu nhập đối với đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách tại Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội. Dự thảo có quy định "Văn phòng Quốc hội kiểm soát tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai thuộc thẩm quyền quản lý của mình và Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, trừ trường hợp kiểm soát của Ủy ban Công tác đại biểu". Tôi đề nghị cũng cần phải làm rõ hơn về đối tượng kê khai tài sản, thu nhập thuộc trách nhiệm quản lý, kiểm soát tài sản, thu nhập của Văn phòng Quốc hội đối với người có nghĩa vụ kê khai thuộc thẩm quyền quản lý của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội.
Vấn đề thứ hai, về nghĩa vụ kê khai tài sản được quy định tại Điều 33. Việc bổ sung khoản 3 Điều 33 của Luật Phòng, chống tham nhũng về nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập, việc kê khai, giải trình về nguồn gốc tài sản, thu nhập tăng thêm là một trong những tiêu chí đánh giá xếp loại mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức. Quy định này theo tôi là rất cần thiết, nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của người có nghĩa vụ kê khai, tuy nhiên quy định còn mang tính định tính, chưa rõ ràng, chưa kèm theo các yêu cầu cần thiết. Cần phải có yêu cầu người kê khai phải trung thực và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc kê khai tài sản, thu nhập. Để đảm bảo quy định được áp dụng thống nhất, khách quan, tôi đề nghị cần có một khung tiêu chí cụ thể để các cơ quan, đơn vị làm căn cứ xác định mức độ không trung thực của bản kê khai hoặc không hợp lý của việc giải trình, từ đó mới có cơ sở vững chắc để đưa vào nội dung đánh giá, xếp loại cán bộ, công chức, viên chức hằng năm.
Vấn đề thứ ba, về tài sản, thu nhập phải kê khai được quy định tại Điều 35: Tại điểm b khoản 1 quy định: kim khí, đá quý, tiền, giấy tờ có giá trị và tài sản khác, mỗi loại tài sản có giá trị từ 150 triệu đồng trở lên. Theo tôi, để đảm bảo thực hiện tốt việc đổi mới trong xây dựng pháp luật, dự thảo luật nên quy định mang tính nguyên tắc, khái quát, không nên liệt kê tài sản là kim khí quý, đá quý, tiền, v.v. có thể phát sinh những loại tài sản khác. Nên, quy định tất cả những loại tài sản là bất động sản, động sản mà mỗi loại tài sản có giá trị từ 150 triệu đồng trở lên phải kê khai và giao cho Chính phủ quy định chi tiết.
Tại khoản 2 quy định kê khai bổ sung được thực hiện khi người có nghĩa vụ kê khai có biến động tài sản, thu nhập hằng năm có giá trị từ 1 tỷ đồng trở lên. Việc kê khai phải hoàn thành trước 31/12 hằng năm. Dự thảo luật đã nâng mức kê khai bổ sung từ 300 triệu đồng lên 1 tỷ đồng. Vấn đề này tôi hoàn toàn thống nhất, tuy nhiên có một vấn đề đặt ra là theo quy định nêu trên thì tài sản trong năm hình thành dưới 1 tỷ đồng không phải kê khai bổ sung, nhưng nếu cộng dồn từ những năm trước đó có thể sẽ trên 1 tỷ đồng thì chưa có quy định rõ việc kê khai này như thế nào. Đối với trường hợp này, tôi đề nghị cần xem xét để có quy định cụ thể để kê khai vấn đề này.
Tôi xin hết ý kiến, xin cảm ơn Quốc hội.