Tái cơ cấu nền kinh tế là một nhiệm vụ lớn và phải có thời
gian, cũng như đòi hỏi quá trình tái cơ cấu đồng bộ trong từng ngành, trong nội
bộ các ngành, trong từng lĩnh vực, trong
các vùng, miền, các địa phương và phải có sự quyết tâm chỉ đạo xuyên suốt từ
trung ương đến địa phương. Trong đó, có thể nói vai trò của nguồn nhân lực có
một ý nghĩa hết sức quan trọng, Bởi vì, nguồn nhân lực là nguồn lực mang tính
chiến lược, hơn nữa trong điều kiện xã hội đang chuyển sang nền kinh tế
tri thức, thì các nhân tố công nghệ, vốn, nguyên vật liệu đang giảm dần vai trò của
nó. Bên cạnh đó, nhân tố tri thức của con người ngày càng chiếm vị trí quan
trọng, nguồn nhân lực có tính năng động, sáng tạo và hoạt động trí óc của
con người ngày càng trở nên quan trọng. Nguồn nhân lực là nguồn lực vô
tận, xã hội không ngừng tiến lên, doanh
nghiệp ngày càng phát triển và nguồn lực con người là vô tận, nếu biết
khai thác nguồn lực này đúng cách sẽ tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã
hội, thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của con người.
Nếu
đánh giá theo tinh thần Nghị quyết số 10 của Quốc hội là giai đoạn khởi động
bước đầu, trong 2, 3 năm thì quá trình tái cơ cấu nền kinh tế trong thời gian
qua đã đem lại những kết quả nhất định.
Mục
tiêu của tái cơ cấu nền kinh tế suy cho cùng là nâng cao năng lực cạnh tranh và
bản chất của năng lực cạnh tranh là năng suất lao động, yếu tố quyết định cho
sự phát triển kinh tế và sự thịnh vượng của một quốc gia. Quá trình tái cơ cấu
nền kinh tế của nước ta mới tiến hành hơn 3 năm, chúng ta chưa đủ thời gian cần
thiết để đánh giá đầy đủ, khách quan về kết quả và tồn tại.
Theo
Báo cáo của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban thường vụ Quốc hội cho
thấy quá trình tái cơ cấu nền kinh tế với ba trọng tâm là tái
cơ cấu đầu tư công, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và tái cơ cấu hệ thống
ngân hàng, bước đầu
đã tác động toàn diện tới kinh tế-xã hội, tăng trưởng, tạo việc làm, giảm số
lượng hộ nghèo, tăng thu nhập và đang có những điều chỉnh cần thiết. Điều đó
khẳng định chủ trương của Đảng và Nhà nước về tái cơ cấu nền kinh tế là đúng
đắn và kịp thời. Đầu tư công đã hạn chế được dàn trải, đem lại hiệu quả tốt hơn
chỉ số ICOR giảm gần 1 so với giai đoạn 2008 - 2010. Việc huy động vốn đầu tư
của khu vực ngoài nhà nước tăng nhanh, điển hình là đã huy động vốn tư nhân cho
xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông gần 17.000 tỷ đồng. Doanh nghiệp nhà nước
được xem xét để sắp xếp cổ phần hóa nhanh hơn, đến nay cơ bản đã phê duyệt xong
Đề án tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước. Tái cơ cấu các tổ chức tín dụng
được triển khai tích cực, đúng định hướng với lộ trình cẩn trọng, tránh được
nguy cơ đổ vỡ, thanh khoản tốt hơn. Đây là điểm tốt trong tái cơ cấu nền kinh
tế như là một điểm sáng về tín dụng cho hộ nghèo, góp phần tăng tưởng tín dụng
năm 2014.
Tuy
nhiên, tái cơ cấu nền kinh tế là quá trình mới trong điều kiện kinh tế đất nước
còn hết sức khó khăn. Những tồn tại do tiến độ, do phân bổ nguồn lực chưa hợp
lý, hiệu quả chưa cao; nhiều vấn đề bức xúc chưa được giải quyết triệt để, còn
lúng túng; cải cách thể chế, cải cách thủ tục hành chính gắn với tái cơ cấu nền
kinh tế còn thiếu đồng bộ, chưa có đột phá mạnh mẽ… Các hạn chế của quá trình tái
cơ cấu nền kinh tế chủ yếu từ các nguyên nhân chủ quan, trong đó có nguyên nhân
trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế chưa quan tâm đến vai trò của nguồn nhân
lực và khoa học, công nghệ. Hai yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất quyết định
tăng năng suất lao động và tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Vì vậy,
Chính phủ cần coi tái cơ cấu lại nguồn nhân lực vừa là khâu đột phá, vừa là
nhiệm vụ song hành, đồng bộ trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế.
Để
đạt được mục tiêu theo tinh thần Nghị quyết số 86/2014/QH13 của Quốc hội về
tiếp tục nâng cao hiệu quả thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế trong lĩnh vực đầu
tư công, doanh nghiệp nhà nước và hệ thống ngân hàng “Coi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, có trình độ khoa học, công
nghệ cao là nhân tố quyết định để tăng năng suất lao động; phát triển thị
trường lao động đồng bộ với quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, cân đối cung cầu
lao động, chuyển dịch cơ cấu lao động hợp lý, nâng cao năng suất lao động và
chất lượng sản phẩm; đẩy mạnh lĩnh vực công nghiệp chế tạo, chế biến, công
nghiệp hỗ trợ; tăng tính liên kết giữa các địa phương trong vùng.” cần quan
tâm một số giải pháp cơ bản sau:
Thứ
nhất, phân bổ hợp
lý lực lượng lao động giữa các vùng miền nhằm khai thác có hiệu quả nguồn tài
nguyên của đất nước và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực. Hiện nay, lực lượng
lao động của nước ta phân bổ chưa hợp lý giữa các vùng miền: năm 2013, đồng
bằng sông Hồng chiếm 22,5%, Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung là 21,8%, đồng
bằng sông Cửu Long chiếm 19,4%, Đông Nam Bộ là 16,3%, Trung du và miền núi phía
Bắc là 13,9%, trong khi Tây Nguyên là 6,1%. Nếu nhà nước không có giải pháp cơ
bản để điều phối lực lượng lao động sẽ không đáp ứng được yêu cầu về nguồn nhân
lực để tái cơ cấu kinh tế theo các vùng và lãnh thổ. Đó còn là nguyên nhân dẫn
đến di cư tự do là hậu quả của vấn đề kinh tế và xã hội phức tạp, gây khó khăn
cho các địa phương, nơi mà có dân cư đến.
Thứ hai, phải tạo một bước đột phá trong
việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đồng bộ với tái cơ cấu đào tạo nguồn
nhân lực nhằm đảm bảo cân đối cung cầu lao động. Theo báo cáo của
Chính phủ, lao động qua đào tạo năm 2014 là 49%, trong đó lao động qua đào tạo
nghề từ 3 tháng trở lên có chứng chỉ đạt 19% là 1 thách thức của nguồn nhân lực nước
ta. Trong khi, cơ
cấu nguồn nhân lực hiện nay còn bất hợp lý, tỷ lệ đại học trở lên là 1, trung
học chuyên nghiệp là 1,3 và công nhân kỹ thuật chỉ 0,92%, (cơ cấu hợp lý của
quốc tế là 1-4-10). Theo kết quả khảo sát của một số quốc gia châu Á, chất
lượng nguồn nhân lực Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm trong thang điểm 10 và xếp thứ
11/12 quốc gia được khảo sát. Đây là nhân tố kìm hãm sự tăng năng suất lao
động. Vì vậy, Chính phủ nghiên cứu, xem xét để tiếp tục tăng cường
các giải pháp đào tạo nguồn nhân lực có cơ cấu hợp lý và chất lượng đáp ứng với
yêu cầu của thị trường lao động, nhằm khắc phục tình trạng đào tạo không gắn với sử dụng, dẫn đến
sinh viên ra trường không có việc làm, hiện nay có hơn 200 ngàn sinh viên tốt
nghiệp từ cao đẳng, đại học trở lên chưa tìm được việc làm trong khi quá trình
đào tạo vẫn có xu hướng tràn lan, chỉ đào tạo những ngành nghề mà cơ sở đào tạo
có, chưa chú ý đến đào tạo theo nhu cầu sử dụng của thị trường lao động, yêu
cầu của quá trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng
thời, phải đặc biệt
quan tâm phát triển chất lượng nguồn nhân lực cho khu vực nông thôn nhằm đảm
bảo nhân lực cho tái cơ cấu nông nghiệp cả trồng trọt và chăn nuôi, lâm, thủy
hải sản chế biến, đặc biệt là công nghiệp dịch vụ phục vụ cho nông nghiệp.
Thứ
ba, cơ cấu lại
năng suất lao động trong nội bộ các ngành kinh tế, đặc biệt trong khu vực nông
nghiệp. Nền kinh tế của chúng ta đang chủ yếu dựa vào khai thác từ tài nguyên
và thâm dụng lao động, năng suất rất thấp. Năng suất lao động khu vực nông
nghiệp chỉ bằng 1/3 công nghiệp và bằng 1/4 dịch vụ. Đề nghị Chính phủ có giải
pháp tái cơ cấu nguồn nhân lực trong các ngành và nội bộ từng ngành để tăng
năng suất lao động.
Thứ tư, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ
cấu lao động từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, khu
vực phi chính thức sang khu vực chính thức. Hiện nay, tỷ lệ lao động
trong ngành nông nghiệp,
lâm nghiệp, thủy sản
của nước ta vẫn chiếm tỷ lệ cao: năm 2013: 46,9%,
năm 2014: 47%. So với các nước trong khu vực, tỷ trọng công nghiệp chế biến chế
tạo và khu vực dịch vụ trong GDP năm 2013 của Việt Nam vẫn còn thấp, chỉ đạt
17,5% và 43,3%, trong khi đó Thái Lan là 29,1% và 50,7%; Malaysia là 23,9% và
50,1%; Indonesia là 23,7% và 39,9%; Phillipines là 20,4% và 57,6%; Trung Quốc
là 37,0% và 46,1%(theo báo cáo củaNgân hàng Phát triển châu
Á). Như vậy, với tốc độ
dịch chuyển như hiện nay thì rất khó có khả năng đạt mục tiêu 30% lực lượng lao
động nông nghiệp vào năm 2020 và có khoảng cách còn lớn so với nhiều nước trong
khu vực.
Cùng với quá trình triển khai mạnh mẽ
các giải pháp để đảm bảo đạt các mục tiêu, định hướng trong Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2011-2020, triển khai hiệu quả, đồng bộ ba đột phá chiến
lược, chú trọng các yếu tố góp phần thay đổi mô hình tăng trưởng kinh tế và
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có trình độ khoa học, công nghệ cao đáp ứng
với yêu cầu cơ cấu và chuyển dịch lao động theo nhu cầu của thị trường lao động
là nhân tố quyết định để tăng năng suất lao động, nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế.
TS. Bùi Sỹ Lợi
Phó chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề
xã hội