Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá XV, sáng 01/11, tại Nhà Quốc hội, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Quốc hội nghe Tờ trình về dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi); Báo cáo thẩm tra dự án Luật Đất đai (sửa đổi), đồng thời tiến hành thảo luận tại hội trường.
Tại phiên thảo luận, Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa có ý kiến phát biểu của đại biểu Cầm Thị Mẫn, Đại biểu Quốc hội chuyên trách thuộc Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa. Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh Thanh Hóa xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của đại biểu Cầm Thị Mẫn.
Đại biểu Cầm Thị Mẫn, Đại biểu Quốc hội chuyên trách thuộc Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa thảo luận tại Hội trường
Kính thưa Chủ tọa kỳ họp,
Kính thưa Quốc hội,
Sau khi nghiên cứu Tờ trình của Chính phủ, báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và các tài liệu liên quan, cá nhân tôi thống nhất cao với sự cần thiết sửa đổi Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012. Tôi xin tham gia đóng góp một số ý kiến cụ thể như sau:
Thứ nhất, tại khoản 1 Điều 7 dự thảo luật quy định về việc đánh giá rủi ro quốc gia, rủi ro ngành. Đây là một nội dung mới chưa được quy định trong luật năm 2012, đại biểu K' Nhiễu ở Lâm Đồng đã đề cập, tôi cho rằng việc đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền là cơ sở để quốc gia tập trung nguồn lực một cách hiệu quả vào các lĩnh vực ưu tiên, lĩnh vực rủi ro cao về rửa tiền, là một trong những trụ cột nền tảng của công tác phòng, chống rửa tiền theo chuẩn mực quốc tế. Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012 không quy định về việc đánh giá rủi ro rửa tiền cấp độ quốc gia, ngành, tại từng tổ chức và thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền trên cơ sở rủi ro của đối tượng báo cáo cũng như hoạt động của thanh tra, giám sát phòng, chống rửa tiền trên cơ sở rủi ro của các bộ, ngành. Đây là một trong những yêu cầu quan trọng trong công tác phòng, chống rửa tiền được nêu ra tại khuyến nghị số 1 trong bộ "40 khuyến nghị của lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền FATF". Do vậy, việc bổ sung quy định đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền là rất cần thiết. Tuy nhiên, xuất phát từ tình hình thực tiễn, đặc biệt là khuyến nghị của FATF và báo cáo kết quả đánh giá đa phương của APG, tôi đề nghị bổ sung quy trình đánh giá rủi ro ngành về rửa tiền nhằm hỗ trợ cho các cơ quan quản lý nhà nước trong việc thực hiện công tác thanh tra, giám sát về phòng, chống rửa tiền đối với các ngành, lĩnh vực nhạy cảm, tiềm ẩn nguy cơ có rửa tiền và là một trong những yêu cầu thuộc nhóm vấn đề then chốt và cơ bản trong công tác phòng, chống rửa tiền, đồng thời đáp ứng yêu cầu xử lý các thiếu hụt của Việt Nam liên quan đến phòng, chống rửa tiền của APG.
Thứ hai, về đối tượng báo cáo. Tại điểm k khoản 1 Điều 4 quy định "tổ chức tài chính là tổ chức được cấp giấy phép để thực hiện một số hoạt động theo quy định", trong đó có hoạt động quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 35, 36, 37 Điều 3 Luật Chứng khoán năm 2019, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán có đối tượng quản lý không chỉ là chứng khoán mà còn là các tài sản khác của nhà đầu tư, kể cả bất động sản. Do vậy, để đảm bảo tính ổn định, lâu dài của Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi), đề nghị cân nhắc việc quy định chung hoạt động quản lý danh mục vốn đầu tư gắn với hoạt động quản lý danh mục chứng khoán và thiết kế lại quy định này cho phù hợp, đảm bảo thống nhất với các quy định của pháp luật khác có liên quan.
Thứ ba, về nhận biết khách hàng, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng. Mục 1 Chương II của dự thảo quy định về biện pháp phòng, chống rửa tiền, theo tôi, để triển khai các biện pháp phòng, chống rửa tiền đạt mục tiêu đề ra thì việc nhận biết khách hàng và cập nhật thông tin nhận biết khách hàng là rất quan trọng để các đối tượng báo cáo nắm bắt được khách hàng của mình. Do vậy, các quy định tại mục này cần được quy định cụ thể, đảm bảo tính chặt chẽ để khi luật được thông qua sẽ dễ áp dụng trong thực tiễn. Tuy nhiên, nghiên cứu các điều từ Điều 9 đến Điều 23 cho thấy còn có một số nội dung, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu bổ sung, làm rõ.
Một, về xác định khách hàng giao dịch không thường xuyên tại điểm b khoản 2 Điều 9, theo tôi quy định này chưa thực sự đầy đủ. Cần xác định khách hàng giao dịch không thường xuyên là việc tài khoản không giao dịch trong thời gian bao lâu. Khoảng thời gian này cần được xác định cụ thể để có cách hiểu thống nhất nhằm tạo thuận lợi trong việc áp dụng công nghệ, biện pháp giám sát, cảnh báo và điều tra giao dịch kịp thời.
Hai, về thông tin nhận biết khách hàng là tổ chức tại điểm e khoản 2 Điều 10. Ngoài các quy định về thông tin nhận biết khách hàng là tổ chức, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu cần bổ sung thông tin danh sách cổ đông, danh sách thành viên góp vốn đối với loại công ty TNHH và các loại hình tổ chức khác ở thời điểm phát sinh giao dịch để đối tượng báo cáo có thêm thông tin nhằm phát hiện các giao dịch đáng ngờ.
Ba, về thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi tại khoản 3 Điều 10. Theo tôi, quy định như dự thảo còn chung chung. Ban soạn thảo cần nghiên cứu quy định rõ về thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi của các giao dịch là người hưởng lợi cuối cùng và cho phép đối tượng báo cáo truy cập, khai thác thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi từ cơ sở dữ liệu của các cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan cấp phép thành lập được nêu tại Điều 21 của dự thảo luật. Điều 21 dự thảo luật chỉ quy định 2 loại chủ thể có quyền yêu cầu cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan cấp phép thành lập, hoạt động cho phép pháp nhân cung cấp thông tin thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nước thanh tra, giám sát phòng, chống rửa tiền, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Bốn, quy định về thời hạn báo cáo. Đối với các báo cáo giao dịch đáng ngờ tại khoản 2 Điều 37. Theo tôi, quy định này sẽ khó khăn cho các tổ chức tín dụng đảm bảo tuân thủ thời gian báo cáo, vì giao dịch đáng ngờ trong nhiều trường hợp sẽ bao gồm chuỗi giao dịch liên quan đến nhiều khách hàng, nhiều bên liên quan đến giao dịch khác nhau, dẫn đến quá trình thu thập thông tin nhằm đánh giá báo cáo giao dịch đáng ngờ là rất phức tạp, cần phải có nhiều thời gian. Do vậy, để đảm bảo đáp ứng mục tiêu báo cáo thống nhất với quy định về hình thức báo cáo giao dịch đáng ngờ tại khoản 3 Điều 36 dự thảo luật, đặc biệt là các tổ chức tín dụng có đủ thời gian phân tích, đánh giá các dấu hiệu đáng ngờ, nâng cao chất lượng báo cáo, đề nghị Ban soạn thảo điều chỉnh quy định báo cáo tại khoản 2 Điều 37 từ 2 ngày làm việc kể từ ngày phát sinh giao dịch hoặc 1 ngày làm việc kể từ ngày phát hiện giao dịch đáng ngờ lên từ 3 ngày đến 5 ngày làm việc kể từ thời điểm phát sinh hoặc phát hiện giao dịch đáng ngờ.
Tôi xin hết ý kiến. Xin trân trọng cảm ơn Quốc hội.