Nhằm phá vỡ các rào cản đang kìm hãm sự phát triển của hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, Bộ Chính trị khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW; tiếp đó, Quốc hội khóa XV đã cụ thể hóa bằng Nghị quyết số 193/2025/QH15 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Nghị quyết 193, được Quốc hội thông qua vào đầu năm 2025, được xem như một “cú hích” mạnh mẽ cho lĩnh vực khoa học công nghệ vốn đang nhiều vướng mắc. Những cơ chế, chính sách thí điểm trong nghị quyết này được cộng đồng các trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp kỳ vọng sẽ tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế, giải phóng sức sáng tạo, thúc đẩy khoa học công nghệ nước nhà phát triển bứt phá. Trong chuyên mục “Khoa học & Đời sống” của Đài PT-TH Thanh Hóa phát sóng ngày 16/6 vừa qua, các chuyên gia và nhà quản lý đã cùng bàn luận sâu về nội dung và ý nghĩa của Nghị quyết 193, cũng như những bước đi cụ thể để đưa nghị quyết vào cuộc sống.
Một trong những đột phá quan trọng được Nghị quyết 193 đưa ra là cho phép các tổ chức khoa học và công nghệ công lập, cơ sở giáo dục đại học công lập được tham gia thành lập doanh nghiệp hoặc góp vốn vào doanh nghiệp để thương mại hóa kết quả nghiên cứu và phát triển công nghệ do chính tổ chức đó sở hữu hoặc quản lý. Đây là điểm mới rất đáng chú ý, bởi trước đây các viện, trường công lập bị hạn chế trong việc đầu tư kinh doanh, dẫn đến nhiều kết quả nghiên cứu “đắp ngăn kéo”, không được ứng dụng rộng rãi. Tiến sỹ Nguyễn Đình Hải – Viện trưởng Viện Nông nghiệp Thanh Hóa – nhận định: “Quy định mới này mở ra cơ hội cho các cơ sở nghiên cứu cùng doanh nghiệp hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, tạo các giá trị gia tăng và thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu”. Thật vậy, khi viện nghiên cứu, trường đại học có quyền trực tiếp góp vốn, thành lập doanh nghiệp spin-off (doanh nghiệp khởi nguồn từ viện, trường), các nhà khoa học sẽ tích cực hơn trong việc đưa sáng chế của mình ra thị trường. Ví dụ, một giống lúa mới do Viện Nông nghiệp Thanh Hóa lai tạo có thể được viện góp vốn cùng doanh nghiệp để sản xuất, phân phối giống, thay vì chỉ chuyển giao qua đề tài như trước. Điều này vừa tạo nguồn thu cho viện, vừa giúp sản phẩm khoa học đến nhanh hơn với người nông dân.
Bên cạnh đó, Nghị quyết 193 cho phép thí điểm cơ chế chấp nhận rủi ro và độ trễ trong nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ – một bước đột phá về tư duy quản lý khoa học. Lâu nay, tâm lý “sợ rủi ro” và áp lực thành công thường khiến các nhà khoa học e dè khi chọn đề tài mới, đột phá. Nhưng nghị quyết mới coi việc chấp nhận rủi ro, thậm chí thất bại trong nghiên cứu là điều tất yếu để đạt được các thành tựu lớn. Ông Nguyễn Viết Giang – Phó Giám đốc phụ trách Trung tâm Nghiên cứu Khoa học & Công nghệ, Công ty Công nông nghiệp Tiến Nông (một doanh nghiệp KHCN của Thanh Hóa) – đánh giá: “Nghị quyết 193 tạo động lực cho người nghiên cứu khoa học dám nghĩ, dám làm và chấp nhận rủi ro. Đây là một thay đổi tích cực về tư duy, giúp các nhà khoa học tự tin thể hiện năng lực, theo đuổi những ý tưởng mới mà không còn quá sợ trách nhiệm nếu chẳng may thất bại”. Quả thật, cơ chế “khoan thư sức sáng tạo” này sẽ khuyến khích các nhà khoa học bước qua “vùng an toàn”, tập trung giải quyết các bài toán khoa học khó, có tính đột phá, thay vì chỉ chọn những đề tài dễ dàng, ít rủi ro để đảm bảo thành tích.
Nghị quyết 193 cũng nêu ra các giải pháp khác nhằm thúc đẩy mạnh mẽ hợp tác công – tư trong nghiên cứu khoa học, gắn kết viện trường với doanh nghiệp. Cụ thể, khuyến khích hình thành các dự án hợp tác giữa trường đại học công lập với doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp đặt hàng hoặc cùng đầu tư cho các nhiệm vụ khoa học công nghệ. Đồng thời, thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong doanh nghiệp, xem doanh nghiệp là trung tâm của đổi mới sáng tạo. Khi doanh nghiệp tích cực ứng dụng công nghệ mới, hợp tác với viện trường, thì kết quả nghiên cứu khoa học sẽ được đưa vào thực tiễn đời sống và sản xuất nhanh hơn, hiệu quả hơn. Phó Giáo sư – Tiến sỹ Ngô Chí Thành, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Hồng Đức, bày tỏ quan điểm: “Nghị quyết 193 sẽ thúc đẩy tinh thần dấn thân nghiên cứu, tinh thần đổi mới sáng tạo của các nhà khoa học cũng như các trường đại học. Nó tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục phát triển tiềm lực khoa học công nghệ, xây dựng nhóm nghiên cứu mạnh và đầu tư nâng cấp các phòng thí nghiệm”. Ông cho biết trường Đại học Hồng Đức đang ấp ủ kế hoạch thành lập một doanh nghiệp khởi nguồn (spin-off) từ một nhóm nghiên cứu về vật liệu mới của trường, dựa trên tinh thần nghị quyết cho phép. Đây là minh chứng bước đầu cho thấy nghị quyết đang dần “thấm” vào thực tiễn giới khoa học địa phương.
Có thể nói, việc xây dựng và triển khai các cơ chế đặc thù theo Nghị quyết 193 được kỳ vọng sẽ tháo gỡ các rào cản hành chính lâu nay tồn tại trong quản lý nhiệm vụ khoa học công nghệ. Chẳng hạn, cơ chế khoán chi, cơ chế quỹ khoa học công nghệ sẽ được thí điểm theo hướng đơn giản hóa thủ tục, giao quyền tự chủ nhiều hơn cho tổ chức chủ trì nhiệm vụ. Hiệu quả sử dụng ngân sách khoa học công nghệ sẽ được nâng cao, khi kinh phí được phân bổ linh hoạt, có thể đặt hàng nhiệm vụ mọi lúc thay vì chờ kế hoạch năm. Mặt khác, cơ chế thí điểm cũng cho phép vượt qua một số quy định hiện hành (như Luật Ngân sách, Luật Viên chức…) để thử nghiệm những cách làm mới trong quản lý tài chính và nhân sự khoa học. Tất nhiên, vì là thí điểm nên Nghị quyết 193 chỉ có hiệu lực trong thời gian nhất định (dự kiến 2-3 năm). Do đó, các bộ, ngành và địa phương phải chạy đua triển khai nhanh các cơ chế mới, tránh tình trạng chờ văn bản hướng dẫn khiến thí điểm hết hiệu lực mà chưa thực hiện được bao nhiêu. Tại Thanh Hóa, Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về đột phá phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đã được thành lập do đồng chí Bí thư Tỉnh ủy làm trưởng ban. Ban Chỉ đạo đã họp phiên đầu tiên vào tháng 4/2025 và yêu cầu các sở ngành “gỡ ngay những điểm nghẽn” về cơ chế, thủ tục để thúc đẩy KHCN, đổi mới sáng tạo của tỉnh. Thanh Hóa xác định việc thực hiện hiệu quả Nghị quyết 193 sẽ là tiền đề để tỉnh xây dựng một hệ sinh thái khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đồng bộ, từ viện trường đến doanh nghiệp, đóng góp thiết thực cho phát triển kinh tế – xã hội địa phương.
Nghị quyết 193 của Quốc hội là một chủ trương mang tính đột phá, thể hiện quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước trong việc đưa khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo thực sự trở thành động lực phát triển đất nước. Đối với tỉnh Thanh Hóa, nơi đang vươn lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nghị quyết này mở ra thời cơ để địa phương tranh thủ “đi tắt đón đầu” về khoa học công nghệ. Những cơ chế thí điểm về thành lập doanh nghiệp KHCN, chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu, hợp tác công – tư… sẽ tạo môi trường thuận lợi hơn cho các nhà khoa học, trường đại học, doanh nghiệp trong tỉnh bứt phá sáng tạo. Đương nhiên, từ chính sách đến cuộc sống là một chặng đường không dễ dàng – như nhiều chuyên gia lo ngại sự chậm trễ trong khâu hướng dẫn có thể làm giảm hiệu lực thí điểm. Vì vậy, rất cần sự chủ động, quyết liệt của các bộ ngành Trung ương cũng như sự năng động của chính địa phương. Thanh Hóa đã vào cuộc sớm với Nghị quyết 193, coi đây là cơ hội vàng để tháo gỡ điểm nghẽn thể chế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo trên địa bàn. Tin tưởng rằng với tinh thần sáng tạo, dám nghĩ dám làm – điều vốn là truyền thống của quê hương Thanh Hóa – tỉnh sẽ thực hiện thành công các cơ chế thí điểm, tạo tiền đề xây dựng một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo vững mạnh, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước trong kỷ nguyên mới.