Giải quyết tốt vấn đề quản lý phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là nhằm thực hiện mục tiêu của dân tộc ta phấn đấu trở thành một nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trải
qua 30 năm đổi mới, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã thực hiện tốt mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội và phát triển văn hóa bảo đảm ổn định đời sống nhân dân. Tuy nhiên,
hiện
nay chúng ta đang phải đối mặt với nhiều thách thức về suy giảm kinh tế và
những bất ổn vĩ mô làm giảm các cơ hội việc làm bền vững của người lao động.
Hơn nữa, Việt Nam còn phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp như biến đổi khí
hậu, chênh lệch về mức sống gia tăng, nghèo đói của đồng bào dân tộc thiểu
số, nghèo đô thị và di cư, chất lượng giáo dục– đào tạo, phát triển văn hóa
và bảo đảm công bằng xã hội chưa theo kịp yêu cầu phát triển của đất nước, năng
lực cạnh tranh của khu vực tư nhân còn yếu trong điều kiện hội nhập kinh tế sâu
rộng. Trong tiến trình đó, Đảng và nhân dân ta kiên định con đường phấn đấu trở
thành một nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
với mục tiêu: (i) khuyến khích công nghiệp hóa, hiện đại hóa cùng với phát
triển một nền kinh tế tri thức, đồng thời bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên
nhiên; (ii) phát triển một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa; (iii) xây dựng một nền văn hóa truyền thống và hiện đại, phát triển con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện cải tiến và công bằng xã hội; (iv)
thực hiện quan hệ đối ngoại độc lập, chủ động, hòa bình, hữu nghị và hợp tác
phát triển, chủ động hội nhập quốc tế; (v) xây dựng một nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Giải quyết tốt vấn đề quản lý phát
triển xã hội;
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là quan điểm, đường lối xuyên suốt của Đảng ta nhằm thực hiện tôn chỉ
phát triển của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Những vấn đề xã hội được tập trung quan tâm bao gồm các
lĩnh vực liên quan đến sự phát triển của con người và xã hội như: dân số và nguồn
nhân lực, lao động, việc làm và thu nhập cho
người lao động, chăm
sóc sức khỏe nhân dân, phúc lợi xã hội
và an sinh xã hội.
1. Nhận thức đúng quan điểm
của Đảng trong Dự thảo văn kiện Đại hội XII về quản lý phát triển
xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc
Dự thảo Báo cáo
chính trị Đại hội XII của Đảng đã thể hiện nội dung về quản lý phát triển xã hội;
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là quá trình tổng kết thực tiễn và lý luận qua hơn 30 năm đổi mới, được củng cố
hoàn thiện và phát triển qua từng giai
đoạn gắn với các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc.
Để khẳng định tư tưởng, quan điểm của Đảng trong văn kiện, cần thống nhất về mặt lý luận, làm sáng tỏ cũng như định hướng cụ thể những
vấn đề về tính chất xã hội chủ nghĩa trong các chính sách xã hội, quản
lý phát triển xã hội, những căn cứ để
đánh giá việc thực hiện mục tiêu công bằng xã hội, đánh giá tính bền vững trong
các chính sách xã hội, trên cơ sở đó, đổi mới phân bổ nguồn lực quốc gia sao
cho tăng tính hiệu quả của quá trình tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển xã
hội. Về mặt lý luận, cần làm rõkhái niệm, nguyên tắc, nội dung và mục
têu quản lý phát triển xã hội đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước
hết, phát triển xã hội là phát triển những mặt xã hội được thể hiện qua
các chính sách và giải pháp thực hiện các chính sách đó. Còn quản lý phát triển
xã hội là những hoạt động bảo đảm cho xã hội phát triển theo đúng quy luật. Sự
quản lý đó thể hiện trên 2 mặt: (i) Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật; (ii)
các tổ chức xã hội thực hiện quyền làm chủ của nhân dân thông qua giám sát thực
thi pháp luật và nhân dân thượng tôn pháp luật. Thứ hai, về nguyên tắc quản
lý phát triển xã hội phải bảo đảm công bằng, tiến bộ và bình đẳng xã hội. Thứ ba,
nội dung quản lý phát triển xã hội trong quá trình đổi mới và hội nhập phải thực
sự bảo đảm phát triển chất lượng cuộc sống của nhân dân; vị thế của nhân dân là
chủ xã hội và quyền làm chủ được tôn trọng; gia đình hòa thuận, cộng đồng hài
hòa; môi trường xã hội an toàn, lành mạnh; con người phát triển toàn diện, có
cơ hội cống hiến và hưởng thụ thành quả. Thứ tư, mục tiêu quản lý phát triển
xã hội phải thể hiện được tinh thần tự đổi mới, tự hoàn thiện, cũng cố, phát
triển; theo dõi biến đổi cơ cấu, giai tầng xã hội để điều chỉnh; tạo sự đồng
thuận xã hội bằng giải pháp đối thoại; dân chủ hóa; tăng cường pháp luật; đề
cao trách nhiệm của nhân dân là chủ thể phát triển xã hội; thanh tra, kiểm tra,
giám sát, thông tin; xây dựng lý thuyết quản lý phát triển xã hội. Đây chính là
nền tảng về nhận thức để Đảng và nhân dân ta thực hiện mục tiêu xây dựng một nước
công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
2. Để giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với quản lý
phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, cần tập trung vào những giải pháp về cơ chế, chính sách cơ
bản
sau:
Trước hết;Nhà nước tiếp tục hoàn
thiện pháp luật về chính sách xã hội, an sinh xã hội, tạo hành lang pháp lý để
kiến tạo mô hình hệ thống an sinh xã hội với các trụ cột cơ bản để bảo đảm tốt
hơn quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân theo hiến định trong một
xã hội dân chủ, công bằng và văn minh.
Thứ
hai, mục tiêu phát triển xã hội bền vững để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc phải được thực hiện thông qua các
giải
pháp quản
lý phát triển xã hội hiệu quả để giải quyết hài hòa các
quan hệ xã
hội,
phân hóa giàu nghèo, bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội bền vững nhằm khắc phục từng bước sự mất cân đối về cơ cấu giai tầng xã hội, dân cư, ngành
nghề,
dân tộc,
tôn giáo; kiểm
soát và xử lý
các rủi
ro, mâu thuẫn,
xung đột
xã hội,
để bảo đảm mọi
người
dân đều
được tự do, bình đẵng cơ hội và điều kiện phát triển toàn diện.
Thứ ba, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội là phải gắn kết chặt chẽ chính sách kinh
tế với chính sách xã
hội,
phát triển
kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân,
bảo
đảm
để nhân
dân được
hưởng
thụ ngày
một
tốt
hơn thành quả của sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thứ tư, thực hiện
các cơ hội bình đẵng để giải quyết tốt vấn đề lao động, việc làm và thu nhập cho người lao động đòi hỏi Nhà
nước phải có chính sách khuyến khích, cơ chế và giải pháp tích cực
để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng tỷ trọng lao động khu vực
chính thức; nâng cao chất lượng nguồn lao động của đất nước, đáp ứng yêu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế.
Thứ năm;hoàn
thiện
chính sách phân phối
và phân phối
lại
phải
bảo
đảm
lợi
ích của
Nhà nước,
người
lao động
và cơ quan, doanh nghiệp. Chú trọng phân phối lại qua phúc lợi xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực y tế, giáo dục. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế. Mở rộng chính sách
phúc lợi
xã hội
thành hệ thống chính sách an
sinh xã hội
đa tầng.
Đây là một
trong những
chỉ báo
quan trọng
của
một
xã hội
công bằng
và văn minh.
Thứ sáu;đảm bảo tốt an sinh xã hội: Nhà nước cân đối khả năng, huy động các nguồn lực, NSNN
trong giai đoạn 2016-2020 để bảo đảm bố trí kinh phí thực hiện hằng năm cho các
chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình mục tiêu, đề án, chương trình đã
được phê duyệt; xem xét cân đối khả năng ngân sách để tiếp tục thực hiện việc
nâng mức trợ cấp xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công, lương của người về hưu thấp, đời sống
khó khăn; ban hành chuẩn
nghèo mới theo phương pháp tiếp cận đa chiều để có cơ sở điều tra, phân loại,
xác định hộ nghèo, hộ cận nghèo làm căn cứ xây dựng chương trình MTQG về giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 – 2020 theo
hướng tập trung chống tái nghèo và duy trì thành quả giảm nghèo bền vững. Tổ chức tốt hơn việc cung cấp các dịch vụ cơ bản (nhà ở, nước sạch, y tế, giáo dục, thông tin) nhất là ở vùng sâu, vùng
xa, vùng khó khăn.
Cuối cùng;coi trọng chăm sóc sức khỏe nhân dân, công
tác dân số và phát triển, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em theo hướng đảm bảo công bằng, giảm chênh lệch mới về tiếp cận chính sách
chăm sóc sức
khỏe
nhân dân giữa
các địa
bàn, các nhóm đối
tượng.
Đầu tư cho y tế là đầu tư cho phát triển; phòng bệnh hơn chữa bệnh; chuyển từ
cơ chế đầu tư tài chính cho cơ sở y tế sang hỗ trợ trực tiếp cho người dân
thông qua BHYT và tiến tới BHYT toàn dân; bảo đảm để mọi người dân có điều kiện
tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất lượng; bình đẳng giữa y tế nhà nước
và y tế tư nhân, thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực y tế; bảo đảm sự quản lý,
điều tiết và đầu tư thích hợp của Nhà nước trong lĩnh vực này phù hợp với sự
phát triển xã hội, có chính sách hỗ trợ cần thiết đối với người nghèo và các đối
tượng khó khăn.
TS. Bùi Sỹ
Lợi - Phó chủ nhiệm Ủy ban về
các vấn đề xã hội